Thủ tướng chỉ thị gỡ khó, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng

Chỉ thị nêu: Vật liệu xây dựng (VLXD) bao gồm xi măng, thép xây dựng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vật liệu xây và các loại VLXD khác có vai trò rất quan trọng, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị, nhà ở trong thiết kế và phát triển đất nước. Các hoạt động sản xuất, tiêu thụ VLXD tác động đến việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành VLXD nước ta gặp rất nhiều khó khăn, sản lượng sản xuất, tiêu thụ và doanh thu đều giảm sút, dẫn đến nguy cơ tác động đến nền kinh tế và ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Qua đánh giá của các Bộ, ngành, hiệp hội và các doanh nghiệp trong ngành cho thấy khó khăn chủ yếu bao gồm:

Một là, cơ chế chính sách để phát triển bền vững ngành VLXD còn có khoảng cách so với thực tiễn; phản ứng chính sách còn chưa kịp thời với các vấn đề phát sinh, cam kết quốc tế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên và các diễn biến nhanh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ các sản phẩm VLXD. Cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất VLXD ứng dụng khoa học công nghệ chưa được ban hành cụ thể.

Hai là, chi phí nhiên liệu than, dầu FO, khí nén thiên nhiên (CNG), khí gas hóa lỏng (LPG) và điện tăng cao. Các nguyên liệu sản xuất VLXD như đá vôi, đá sét, phụ gia làm xi măng; cát trắng silic, đá vôi, đolomit làm kính; cao lanh, felspat (tràng thạch) làm gạch ốp lát, sứ vệ sinh; cát để sản xuất vật liệu xây không nung (VLXKN), nguyên liệu đầu vào làm thép,… vẫn còn gặp khó khăn, có lúc chưa bảo đảm đủ ổn định để sản xuất.

Ba là, thị trường tiêu thụ VLXD trong nước và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do tổng cầu trong nước và thế giới đều giảm, chuỗi cung ứng bị đứt gẫy, thị trường bất động sản trong nước tăng trưởng chậm, nhiều công trình xây dựng, dự án trọng điểm về kết cấu hạ tầng chậm triển khai, phải hoãn hoặc giãn tiến độ; chi phí vận tải tăng cao; xuất khẩu clanhke, các sản phẩm VLXD sụt giảm do cạnh tranh gay gắt về giá bán sản phẩm từ các nhà sản xuất lớn trên thế giới, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại các thị trường xuất khẩu; thị trường nội địa cạnh tranh gay gắt do sản phẩm nhập ngoại tăng lên đáng kể trong thời gian qua.

Bốn là, tình hình tài chính gặp khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất VLXD, nhất là các doanh nghiệp xi măng có tỷ lệ vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi lớn. Do tiêu thụ sản phẩm rất chậm trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, dẫn đến dòng tiền để trả nợ cho ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất rất khó khăn. Nhiều nhà máy VLXD, đặc biệt là nhóm xi măng, thép xây dựng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ, dẫn đến nợ xấu.

Năm là, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái liên quan đến VLXD vẫn chưa được giải quyết triệt để.

6 quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ

Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc nêu trên và thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và VLXD trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan quán triệt 6 quan điểm chỉ đạo:

1. Bám sát thực tiễn, kịp thời phản ứng nhanh chính sách với những vấn đề khó khăn, vướng mắc nổi lên, tổ chức thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, thép xây dựng và các loại VLXD khác.

2. Phát triển ngành VLXD bảo đảm hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu các sản phẩm VLXD có giá trị kinh tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.

3. Tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất; nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng.

4. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm tài nguyên khoáng sản; sử dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình sản xuất theo hướng kinh tế tuần hoàn; hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản và sản xuất VLXD theo hướng sản xuất xanh.

5. Phát huy, khuyến khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển VLXD;

6. Phân bổ mạng lưới cơ sở sản xuất VLXD trên toàn quốc phù hợp với điều kiện về tự nhiên, xã hội của từng vùng, miền.

4 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan tập trung thực hiện 4 nhiệm vụ và giải pháp sau:

1. Về cơ chế chính sách phát triển ngành:

– Rà soát các cơ chế, chính sách, thể chế để khuyến khích đầu tư phát triển ngành VLXD nhanh và bền vững, phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất cho vay cho các khách hàng, trong đó có doanh nghiệp trong ngành VLXD theo quy định pháp luật. Ban hành các chính sách ưu đãi về sử dụng rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, phế thải một số ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao,… làm nhiên liệu, nguyên liệu thay thế trong sản xuất xi măng và các VLXD khác. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực VLXD nhất là trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, thép xây dựng.

– Nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế về xuất khẩu sản phẩm clanhke xi măng để bảo đảm tính cạnh tranh với các nước cùng xuất khẩu mặt hàng này, đồng thời phù hợp với Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) về việc không đánh thuế xuất khẩu hàng hoá với các nước ký Hiệp định. Tăng cường các biện pháp về phòng vệ thương mại, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá đối với các sản phẩm sắt thép, các sản phẩm VLXD như gạch ốp lát nhập khẩu, ván sợi gỗ (LDF/MDF/HDF), sứ vệ sinh, kính xây dựng… nhằm loại bỏ các hành vi cạnh tranh không công bằng và bảo đảm phù hợp với những quy định của Việt Nam và WTO.

2. Về áp dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi sản xuất của ngành, nhất là sản xuất xanh:

Chủ động đổi mới, áp dụng linh hoạt công nghệ cao, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn để giảm giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm.

3. Về thị trường:

– Tăng cường dự báo diễn biến trong và ngoài nước để chủ động có các giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả, giúp cho doanh nghiệp có các định hướng ổn định sản xuất, kinh doanh; chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống hàng giả, hàng nhái; mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.

– Đẩy mạnh đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, các công trình quốc phòng, an ninh, công trình biển và hải đảo phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế biển.

– Tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, nhà ở; đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh bền vững.

– Đẩy mạnh triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác để tiêu thụ VLXD.

– Nghiên cứu tăng tỷ lệ lựa chọn phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc, đặc biệt là ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu có chiều sâu lớn và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng đồng bằng sông Cửu Long; nghiên cứu sử dụng tối đa gia cố đất bằng xi măng trong xây dựng đường bộ tại khu vực đầu cầu, cống, các vị trí có chiều cao đắp lớn, các vị trí có chiều sâu đất yếu lớn,….

– Đẩy mạnh xây dựng các công trình chống biến đổi khí hậu như đê chắn sóng, các công trình chống sạt lở, gây lún đất các khu vực bị tác động.

– Ưu tiên đầu tư đường bê tông xi măng trong phát triển đường giao thông nông thôn miền núi, khu vực địa hình khó khăn, độ dốc lớn và tại những vùng, khu vực thường xuyên bị ngập nước.

4. Về hợp tác quốc tế:

Đẩy mạnh hợp tác đầu tư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản trị doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả, tiết kiệm nguyên, nhiên liệu, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực VLXD.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng rà soát, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 – 2030, định hướng đến năm 2050 tại Quyết định số 1266/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2020; Chương trình phát triển VLXKN tại Việt Nam đến năm 2030 tại Quyết định số 2171/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2021 và các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án liên quan đến VLXD để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội.

Triển khai hiệu quả Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1626/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2023 và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2024.

Đôn đốc các doanh nghiệp VLXD, đặc biệt là xi măng tiết giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tăng cường đầu tư các hệ thống phát điện nhiệt dư và sử dụng các loại nhiên liệu thay thế từ rác thải, sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao.

Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn và triển khai các biện pháp về hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm VLXD nhập khẩu, đặc biệt là gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng, bảo đảm phù hợp với những quy định về Tự do thương mại của WTO; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, đẩy mạnh triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác.

Bộ Công Thương khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển ngành thép Việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, lĩnh vực thép xây dựng cần được bảo đảm cân đối cung cầu và đầu tư phát triển bền vững.

Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lĩnh vực thép xây dựng như: các chính sách về thuế các loại (thuế nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp,…), thu hút đầu tư, xây dựng tiêu chuẩn quốc gia; phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý lĩnh vực thép xây dựng.

Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các bộ ngành liên quan trong việc xem xét hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, tiến hành điều tra theo quy định và kịp thời ban hành các biện pháp cụ thể về phòng vệ thương mại đối với các sản phẩm sắt thép và các sản phẩm VLXD như gạch ốp lát nhập khẩu, ván sợi gỗ (LDF/MDF/HDF), sứ vệ sinh, kính xây dựng… bảo đảm phù hợp với những quy định của pháp luật Việt Nam và WTO.

Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các hội, hiệp hội nghề đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu clanhke và xi măng; thép xây dựng, tôn mạ và các sản phẩm thép.

Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng

Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2023 về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan; nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh theo hướng áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng clanhke xi măng ở mức phù hợp để tháo gỡ khó khăn về tiêu thụ sản phẩm hiện nay.

Chủ trì xây dựng Nghị định hướng dẫn Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông qua; nghiên cứu quy định về sản phẩm clanhke xi măng theo hướng “sản phẩm clanhke xi măng thuộc đối tượng chịu thuế GTGT” kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất các sản phẩm VLXD trong nước có chất lượng thay thế VLXD nhập khẩu, thân thiện môi trường, các sản phẩm VLXD chế biến sâu để xuất khẩu theo cơ chế, chính sách hiện hành; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư các trạm nghiền, trạm phân phối xi măng ở những địa phương không sản xuất được clanhke và có nguồn phụ gia, tận dụng được tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện.

Giải quyết kịp thời các thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, thuê đất đối với các dự án đầu tư khai thác khoáng sản làm VLXD và sản xuất VLXD. Đồng thời, khi xem xét, quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án sản xuất VLXD cần cân nhắc kỹ để tránh việc đầu tư dư thừa, dẫn đến cung vượt cầu, gây lãng phí nguồn lực xã hội.

Đồng thời, các địa phương đẩy mạnh các dự án đầu tư công, nhà ở xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, phòng chống thiên tai trên địa bàn để tăng lượng sử dụng xi măng, sắt thép và các VLXD khác.

Cắt giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp VLXD phải đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, dầu, khí đốt và điện; áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải để giảm chi phí sản xuất.

Đa dạng hoá sản phẩm VLXD, phù hợp các loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu, vùng miền khác nhau; tăng cường sản xuất các sản phẩm VLXD thay thế nhập khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường; tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm VLXD với nhiều nước trên thế giới…

 

Nguồn: Báo đầu tư

Xuất nhập khẩu hàng hóa vẫn đối diện những ‘biến số’ khó lường

Điểm sáng trong bức tranh kinh tế

Số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trong nửa đầu tháng 8/2024 đạt 32,93 tỷ USD, giảm 11,4% so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 7/2024. Kết quả này đã đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đến hết ngày 15/8/2024 đạt 473,33 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2023.

Trong đó, tính đến giữa tháng 8/2024, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 244,41 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2023. Một số nhóm hàng tăng mạnh như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 28,9%; máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 21,3%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 11,1%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 23,2%…

Ở chiều ngược lại, tính đến giữa tháng 8/2024, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt 228,92 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó một số nhóm hàng tăng mạnh như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 28,2%; máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 16,5%; sắt thép các loại tăng 1 tăng 22,5%…

Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của thị trường thế giới gia tăng, đồng nghĩa với doanh nghiệp trong nước đang có nhiều thêm các đơn hàng xuất khẩu. Xuất nhập khẩu hàng hóa từ đầu năm đến nay tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh kinh tế chung của Việt Nam.

“Trong nửa đầu năm nay, nền kinh tế Việt Nam được hưởng lợi do nhu cầu hàng xuất khẩu phục hồi. Để duy trì đà tăng trưởng từ nay đến cuối năm và các năm tới, các cấp có thẩm quyền cần tiếp tục cải cách thể chế, đẩy mạnh đầu tư công, đồng thời quản lý, giảm sát các rủi ro trong thị trường tài chính”, ông Sebastian Eckardt – Trưởng Ban Kinh tế Vĩ mô, Thương mại và Đầu tư khu vực Đông Á Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới – cho biết.

Theo nhận định của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương), nhu cầu tiêu dùng nội địa tăng qua các tháng cho thấy tổng cầu nền kinh tế đang được nâng lên. Nhu cầu của thị trường nội địa tăng trưởng sẽ là động lực cho nền kinh tế, đặc biệt vào thời điểm từ nay đến cuối năm do tính chất mùa lễ hội, nhu cầu thị trường càng tăng vào cuối năm. Đây là động lực rất lớn thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước phát triển.

Bên cạnh đó, khủng hoảng chính trị tại Bangladesh – quốc gia xuất khẩu hàng may mặc lớn của thế giới, sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp ngành may mặc Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu. Bạo loạn đã dẫn đến sự tàn phá nghiêm trọng các cơ sở sản xuất trong nước, khiến ngành may mặc Bangladesh phải mất một thời gian khá dài để phục hồi. Đây là dịp để các nước có thế mạnh về ngành dệt may, trong đó có Việt Nam bù đắp nguồn cung cho thị trường thế giới.

Vẫn còn những ”biến số” khó lường

Bên cạnh những thuận lợi, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng đang đối diện với những khó khăn không nhỏ. Theo đó, xung đột quân sự Nga – Ukraine và Israel – Hamas trực tiếp tác động đến dòng chảy thương mại toàn cầu, tạo nên nguy cơ đứt gãy các tuyến đường vận tải trọng yếu của thế giới. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ mà còn làm phát sinh thêm chi phí logistics cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.

Việc Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường sẽ khiến doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào nước này tiếp tục bị phân biệt đối xử trong các vụ điều tra chống bán phá giá, trợ cấp. Bởi chi phí sản xuất thực tế của doanh nghiệp Việt Nam không được dùng để tính toán biên độ phá giá mà phải sử dụng “giá trị thay thế” của một nước thứ ba. Đây là một trong những khó khăn, trở ngại rất lớn đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.

Việc Hoa Kỳ tiếp tục áp thuế chống bán phá giá; EC và Đài Loan (Trung Quốc) xem xét điều tra chống bán phá giá đối với một số nhóm hàng của Việt Nam là những diễn biến bất lợi cho xuất khẩu của nước ta sang các thị trường này. Doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan không chỉ phải chuẩn bị hồ sơ phục vụ điều tra, chứng minh tính hợp pháp của hàng hóa, mà những động thái này còn tác động trực tiếp đến quy mô và sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp.

Trong bối cảnh hiện nay, những đề xuất về việc giảm thuế giá trị gia tăng sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương kiến nghị, các bộ, ngành và cơ quan hữu quan cần phối hợp chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ bảo đảm quan hệ kinh tế, thương mại song phương tiếp tục phát triển ổn định, hài hòa, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người dân hai nước. Cung cấp bổ sung nhiều lập luận về việc đáp ứng đầy đủ 6 tiêu chí kinh tế thị trường theo quy định của luật pháp Hoa Kỳ để tiếp tục đề nghị phía Hoa Kỳ thực hiện cam kết về việc phối hợp mang tính xây dựng và tiến tới sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam.

Đồng thời, cần tiếp tục phát huy vai trò của các thương vụ, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại nước ngoài trong việc cung cấp thông tin, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp trong thương mại quốc tế.

Đối với việc Hoa Kỳ tiếp tục áp thuế chống bán phá giá mặt hàng tháp gió, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương khuyến nghị các doanh nghiệp xuất khẩu tháp gió sang Hoa Kỳ cần liên hệ với Bộ Thương mại Hoa Kỳ khi xuất khẩu để được tính toán mức thuế riêng, nếu không sẽ phải chịu mức thuế chống bán phá giá 58,24%

Đối với kế hoạch điều tra chống bán phá giá của EC và Đài Loan (Trung Quốc), Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu mặt hàng này cần nghiên cứu kỹ các thông tin tài liệu và hợp tác đầy đủ, toàn diện với bên khởi xướng điều tra để cung cấp các thông tin, tài liệu theo đúng thể thức và thời hạn quy định, thường xuyên phối hợp, cung cấp thông tin để nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương).

Ở góc độ ngành Công Thương, để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa những tháng cuối năm, Bộ Công Thương cho biết, sẽ tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung vào củng cố các thị trường lớn truyền thống; mở rộng các thị trường mới. Hỗ trợ doanh nghiệp chuẩn bị điều kiện, đáp ứng các tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn xanh, quảng bá, xúc tiến thương mại để tiếp cận thị trường tiềm năng.

Bên cạnh đó, các đơn vị của Bộ Công Thương rà soát các mặt hàng, thị trường trọng tâm, trọng điểm cần được ưu tiên để thực hiện xúc tiến thương mại trong ngắn, trung và dài hạn. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ để cùng triển khai được chuỗi các hoạt động mang tính chuyên môn của nhiều đơn vị, trong khuôn khổ của một chương trình xúc tiến thương mại, nhằm nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực.

 

Nguyễn Hạnh
Nguồn: Báo Công Thương

Doanh nghiệp Việt cần cẩn trọng trước thủ đoạn lừa đảo mới trong kinh doanh quốc tế

Theo Thương vụ Việt Nam tại Pakistan, một  doanh nghiệp Việt Nam (xin viết tắt Công ty A) có nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu chế biến thủy sản xuất khẩu. Tháng 5/2024, Công ty A nhận được thư chào hàng nguyên liệu thủy sản chất lượng cao với giá hấp dẫn từ một khách hàng xưng là X, ở Pakistan, là đại diện của Công ty Y (Pakistan- xin chưa nêu tên).

Công ty A đã kiểm tra kỹ càng thông tin khách hàng theo địa chỉ website và nhận thấy Công ty Y là một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản lớn và có uy tín tại Pakistan, nên lập tức ký hợp đồng và chuyển 5.000 USD tiền đặt cọc cho người xưng đại diện Công ty Y. Tuy nhiên, sau khi nhận được tiền đặt cọc, khách hàng X không giao hàng theo thời hạn hợp đồng và cũng “biến mất”, không trả lời các câu hỏi của Công ty A.

Theo Thương vụ Việt Nam tại Pakistan, với hình thức lừa đảo trên, thủ đoạn của các đối tượng là mở tài khoản mạo danh các công ty có thật tại nước ngoài, liên hệ với các công ty/ doanh nghiệp thương mại có nhu cầu xuất nhập khẩu tại Việt Nam để giao dịch. Đối tượng sử dụng những chiêu trò tinh vi, giả mạo chuyên nghiệp để lừa các công ty/ doanh nghiệp tại Việt Nam ký hợp đồng, đồng thời đặt cọc tiền.

Để lấy được lòng tin của nạn nhân, đối tượng làm giả các giấy tờ như bản sao B/L, bản sao giấy chứng nhận chất lượng, bản sao giấy chứng nhận xuất xứ,… Sau khi nhận tiền đặt cọc từ phía doanh nghiệp Việt Nam, đối tượng biến mất, xóa sạch mọi dấu vết nhằm chiếm đoạt tài sản.

Trước tình trạng trên, các chuyên gia khuyến cáo các doanh nghiệp Việt Nam cần tuyệt đối cẩn trọng khi thực hiện bất cứ giao dịch nào trên thị trường quốc tế.

Trước khi giao dịch, hãy kiểm tra kỹ lưỡng thông tin về đối tác, sử dụng các dịch vụ tra cứu uy tín, như các cơ quan thương mại quốc tế hoặc tổ chức tín dụng, để xác nhận tính hợp pháp của doanh nghiệp và đối tác kinh doanh. Đảm bảo rằng tất cả các thỏa thuận và giao dịch được ghi rõ trong hợp đồng bằng văn bản bao gồm chi tiết về điều khoản thanh toán, vận chuyển, chất lượng hàng hóa và các quyền lợi của các bên.

Các doanh nghiệp cần tham khảo ý kiến từ luật sư quốc tế chuyên nghiệp và uy tín nếu cần thiết. Cẩn thận với các yêu cầu không thường xuyên hoặc không rõ ràng từ đối tác, như yêu cầu chuyển tiền qua các kênh không chính thống hoặc yêu cầu thông tin nhạy cảm.

 

Nguồn: Báo đầu tư

Vốn đầu tư từ Đài Loan: Hết “đại bàng”, chờ đón “chim sẻ”

Tiên phong khai phá thị trường

Đài Loan, có thể nói, là một trong những nhà đầu tư bên ngoài đến Việt Nam sớm nhất, thậm chí, từ năm 2010 trở về trước, còn là nhà đầu tư bên ngoài lớn nhất tại Việt Nam.

Trong giai đoạn đầu thập niên 90, Việt Nam – khi đó mới mở cửa, với ưu thế nổi trội nhất là nguồn lao động dồi dào, cần cù, khéo léo – đã thu hút được nhiều doanh nghiệp Đài Loan lớn. Chẳng hạn, trong ngành dệt may có Eclat, New Wide, Far Eastern…; ngành da giày có Pouchen, Pouyuen, HongFu…; ngành sản xuất – chế biến có Vedan, SYM, Taya… Và không thể không nhắc tới dự án bất động sản đã làm thay đổi cả một vùng đầm lầy ngập nước khu vực phía Nam của TP.HCM là Phú Mỹ Hưng.

Nhìn chung, những “đại bàng” của các lĩnh vực truyền thống giai đoạn này không chỉ thúc đẩy kinh tế, sản xuất và xuất khẩu cho nền kinh tế Việt Nam thời kỳ mới mở cửa, mà còn giải quyết số lượng lớn lao động ở các địa phương khu vực phía Nam.

Cho đến nay, các “đại bàng” trên vẫn tiếp tục mở rộng phát triển và không chỉ đơn thuần là doanh nghiệp chế xuất như những ngày đầu, mà có sự đầu tư liên tục cho hoạt động nghiên cứu – phát triển, thậm chí nhiều tập đoàn đã đầu tư mở rộng và biến Việt Nam trở thành cứ điểm sản xuất tại nước ngoài lớn nhất.

Đơn cử, tại Tập đoàn SYM, nếu như những ngày đầu, các nhà máy tại Việt Nam chỉ đơn thuần lắp ráp các linh kiện từ Đài Loan chuyển sang, thì từ hơn 1 năm qua, 100% linh kiện đã được sản xuất tại Việt Nam với tỷ lệ nội địa hóa lên tới trên 90%; 100% sản phẩm xuất khẩu của SYM cũng được sản xuất tại Việt Nam.

Trong những năm gần đây, xung đột địa chính trị giữa các nước lớn đã khiến Việt Nam có ưu thế lớn trong mắt các nhà đầu tư bên ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Đài Loan. Một khảo sát của Bộ Kinh tế Đài Loan cho thấy, khoảng 18% các doanh nghiệp sản xuất truyền thống của Đài Loan đã bày tỏ sự quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam.

Theo số liệu thống kê, tính đến cuối tháng 7/2024, các doanh nghiệp Đài Loan đã đầu tư 3.197 dự án tại Việt Nam (còn hiệu lực), với tổng vốn đăng ký trên 40,3 tỷ USD. Đài Loan đứng thứ 4 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam.

Và hiện nay, các “đại bàng” Đài Loan trong các ngành nghề truyền thống – đã có mặt tại Việt Nam từ lâu – vẫn tiếp tục tận hưởng thành quả đầu tư suốt hơn 30 năm qua. Khi lao động giá rẻ không còn quá chiếm ưu thế, thì những chính sách ưu đãi, cơ hội mở rộng thị trường do hàng chục hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) quý giá giữa Việt Nam với EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… mang lại đang trở thành một lợi thế lớn của Việt Nam, mà không quốc gia nào trong khu vực có được.

Làn sóng điện tử – công nghệ

Nếu như những năm 2000, làn sóng đầu tư từ Đài Loan sang Việt Nam chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Nam, với nhiều “đại bàng” trong các ngành dệt may, da giày, chế biến, như Eclat, Pouchen, SYM, Vedan…, thì sau chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, làn sóng này có sự dịch chuyển rõ rệt ra các tỉnh phía Bắc và tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực điện tử, công nghệ, với hàng loạt tên tuổi lớn, như Foxconn, Pegatron, Wistron, Qisda, Compal, Quanta…

Thực tế, một số tập đoàn điện tử – công nghệ của Đài Loan, như Foxconn, Compal… đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 2007, nhưng vì nhiều lý do, nên chỉ đầu tư dự án có quy mô rất nhỏ, mang tính “điểm danh”. Tuy nhiên, kể từ chiến tranh thương mại Mỹ – Trung năm 2017 đến nay, các tập đoàn trên cũng như nhiều “đại bàng” Đài Loan khác đã tăng tốc đầu tư và mở rộng hoạt động sản xuất tại Việt Nam.

Cho đến nay, 10/13 tập đoàn điện tử – công nghệ Đài Loan nằm trong top 100 công ty công nghệ lớn nhất thế giới đã có dự án đầu tư tại Việt Nam. Chẳng hạn, Foxconn, Pegatron, Wistron, Qisda, Inventech, Compal, Quanta, Liteon… đã và đang góp phần biến các địa phương khu vực phía Bắc dần trở thành hệ sinh thái sản xuất công nghệ của Việt Nam. Không chỉ vậy, các sản phẩm, linh kiện điện tử được các tập đoàn này sản xuất ở Việt Nam đang ngày càng trở nên quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, trong đó có chuỗi cung ứng cho Apple.

Kể từ sau đại dịch Covid-19, bất chấp sự chững lại của các doanh nghiệp điện tử, công nghệ Nhật Bản, Hàn Quốc, những “đại bàng” công nghệ còn lại của Đài Loan đã lần lượt đổ bộ vào Việt Nam. Trong số đó, có thể kể đến dự án của tập đoàn sản xuất máy tính lớn nhất thế giới Quanta tại tỉnh Nam Định, dự án của Tập đoàn Compal tại tỉnh Thái Bình… Nhờ vậy, vốn đầu tư từ Đài Loan vào Việt Nam trong hai năm 2022 và 2023 đã ghi nhận những kỷ lục mới trong thập kỷ vừa qua.

Cũng trong hai năm qua, mặc dù các nhà sản xuất điện tử Đài Loan có tăng cường thâm nhập các quốc gia khác như Thái Lan, Indonesia và Ấn Độ, nhưng Việt Nam vẫn là sự lựa chọn hàng đầu. Giới phân tích cho rằng, Việt Nam có một “điều kiện quan trọng” mà các quốc gia khác thiếu, đó là vị trí gần với Trung Quốc – công xưởng sản xuất lớn nhất của thế giới.

Với vị trí thuận lợi này, các nhà sản xuất ở Việt Nam có thể dễ dàng nhập khẩu bất kỳ linh kiện, thiết bị hoặc nguyên liệu nào từ Trung Quốc, bằng mọi loại hình vận tải thông dụng nhất hiện nay, bao gồm đường bộ, đường thủy và đường không trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, các sản phẩm được sản xuất từ Việt Nam cũng dễ tiếp cận thị trường khổng lồ Trung Quốc.

Một sức hút khác của Việt Nam liên quan đến các FTA mà Việt Nam đã ký kết, bao gồm Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) và đặc biệt là FTA lớn nhất thế giới là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Điều này đặc biệt hữu ích cho các công ty trong ngành điện tử, công nghệ của Đài Loan.

Hết “đại bàng”, đón “bồ câu, chim sẻ”

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), 7 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư từ Đài Loan đạt 1,184 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy vậy, trong số này, ít có dự án lớn từ các “đại bàng” điện tử – công nghệ nêu trên.

Để đạt được mục tiêu hợp tác với “bồ câu, chim sẻ” Đài Loan, thì các doanh nghiệp trong nước cần khẩn trương có sự chuẩn bị và thay đổi mạnh mẽ, nhất là trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, làm sao không chỉ đáp ứng được nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp trong nước, mà còn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Đài Loan nói riêng và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói chung.

Có chăng, lớn nhất là phần đầu tư của Tập đoàn Foxconn. Tháng 7/2024, Foxconn đã đầu tư hai dự án với quy mô 550 triệu USD ở Quảng Ninh. Trước đó, tập đoàn này cũng đầu tư một dự án hơn 380 triệu USD ở Khu công nghiệp Nam Sơn – Hạp Lĩnh (Bắc Ninh). Trong khi đó, Tripod Technology đầu tư một dự án 250 triệu USD tại Khu công nghiệp Châu Đức ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Những khoản đầu tư trên một lần nữa chứng tỏ sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các tập đoàn Đài Loan. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ về các dự án của Đài Loan trong 7 tháng qua, có thể thấy, quy mô các dự án không lớn. Nếu là các dự án lớn, vẫn thuộc về các tập đoàn lâu nay đã đầu tư lớn vào Việt Nam.

Trong danh sách 13 tập đoàn điện tử – công nghệ Đài Loan trong top 100 công ty công nghệ lớn nhất thế giới, chỉ còn 3 tập đoàn trong lĩnh vực bán dẫn chưa xuất hiện tại Việt Nam là TSMC, UMC và ASE. Việt Nam đang mong muốn phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và chắc chắn, rất muốn thu hút đầu tư từ các “ông lớn” này.

Tuy nhiên, trong bối cảnh và điều kiện hiện tại, cơ hội để 3 “đại bàng” trong lĩnh vực bán dẫn này đầu tư sang Việt Nam có thể nói là không khả thi. Tức là về cơ bản, có thể sơ bộ nhận định rằng, trong ngắn hạn, Đài Loan đã… hết “đại bàng” mà Việt Nam có thể thu hút được. Nhưng hết “đại bàng”, thì vẫn còn “bồ câu, chim sẻ”.

Hệ thống doanh nghiệp của Đài Loan được cấu thành trên cơ sở 97% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các ngành nghề, lĩnh vực được phân công chi tiết và phân khúc rõ ràng. Ngay cả ngành sản xuất ốc vít, một trong những “sản phẩm” được cho là đơn giản nhất, nhưng cũng phân ra thành 2 nhóm sản xuất, bao gồm: đầu nguồn (gồm doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu kim loại để làm ốc vít) và hạ nguồn (là các doanh nghiệp gia công ra các loại ốc vít từ nguyên liệu kim loại). Chính những con ốc vít thành phẩm này lại là sản phẩm “đầu nguồn” của một loại thiết bị, linh kiện nào đó… Và chính sự gắn bó chặt chẽ đó đã tạo nên một ngành công nghiệp sản xuất và công nghiệp phụ trợ hàng đầu thế giới như Đài Loan.

Trong giới sản xuất điện tử – công nghệ Đài Loan, có một định nghĩa là “open cluster” (hiểu nôm na là chuỗi cung ứng mở). Theo đó, mỗi thiết bị, sản phẩm điện tử – công nghệ hiện nay có hàng trăm, hàng ngàn linh kiện nhỏ bên trong, các “đại bàng” chỉ thiết kế để làm sao ráp nối được các linh kiện trên thành một khối sản phẩm hoàn chỉnh, chứ ít khi tự sản xuất tất cả.

Các “đại bàng” điện tử – công nghệ Đài Loan cũng có sự khác biệt là sử dụng nhiều doanh nghiệp phụ trợ bên ngoài, không như một số “đại bàng” lĩnh vực này của Hàn Quốc – chỉ sử dụng doanh nghiệp phụ trợ trong hệ sinh thái tập đoàn. Do đó, việc hàng trăm, hàng ngàn doanh nghiệp phụ trợ là “bồ câu, chim sẻ” của Đài Loan có thể sang Việt Nam cùng “đại bàng” tiếp tục là xu thế chủ đạo trong thời gian tới.

Đây cũng là cơ hội rất tốt cho những doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam, nhất là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này có thể thông qua việc hợp tác sản xuất, trở thành nhà cung ứng cho những “bồ câu, chim sẻ” Đài Loan, từ đó nâng cao trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý và mở rộng năng lực sản xuất hơn nữa.

 

Nguồn: Báo đầu tư

Bắc Ninh: Sẽ đóng cửa hoạt động các cơ sở vi phạm môi trường ở làng nghề

Theo đó, tại phiên họp thường kỳ của UBND tỉnh Bắc Ninh diễn ra ngày 20/8, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn chỉ đạo cơ quan chức năng và địa phương tập trung xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề Phong Khê, Phú Lâm, Văn Môn.

Theo ông Tuấn, thời gian qua, tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo nhiều giải pháp với tinh thần quyết liệt song kết quả thực hiện vẫn chưa được như kỳ vọng. Quan điểm của tỉnh Bắc Ninh đối với các cơ sở tại làng nghề Phú Lâm, Phong Khê, Văn Môn là cứ vi phạm về môi trường, giấy phép xây dựng, xả thải trái phép đều có thể áp dụng biện pháp mạnh nhất là đóng cửa hoạt động, kiên quyết không châm chước và không thỏa hiệp. Đến ngày 31/12, tất cả cơ sở ngoài cụm công nghiệp sẽ phải đóng cửa dừng hoạt động.

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh giao Sở Tài nguyên và Môi trường đôn đốc UBND các huyện, thị xã, thành phố tổng hợp báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện chậm nhất ngày 17 hằng tháng.

Công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp chặt chẽ với các địa phương thực hiện việc trinh sát, mở đợt cao điểm xử lý ô nhiễm môi trường tại khu vực làng nghề Phú Lâm, Phong Khê, Văn Môn. Các địa phương rà soát, xây dựng đề án lộ trình bảo vệ môi trường tại các làng nghề khác trên địa bàn.

Trước đó, báo Tiền Phong và nhiều cơ quan báo chí từng phản ánh về tình trạng ô nhiễm môi trường, xả thải ở làng nghề Phú Lâm, Phong Khê, Văn Môn.

 

Nguồn: Báo Tiền Phong

Gia Lai: Cấp giấy phép môi trường cho dự án nhà máy sản xuất giấy

Đây là dự án đầu tư nhóm II theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ; là dự án nhóm B phân loại theo tiêu chí quy định của pháp luật về đầu tư công. Dự án có tổng diện tích 23.200 m2 với công suất 35.000 tấn giấy thành phẩm/năm.

Theo giấy phép, nhà máy chỉ được phép thực hiện các nội dung đã được cấp phép sau khi đã hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường tương ứng. Cụ thể, nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất sau xử lý tại hệ thống xử lý nước thải của nhà máy đạt tiêu chuẩn nước thải đầu vào của Khu công nghiệp Trà Đa được đấu nối vào tuyến cống thu gom nước thải của Khu công nghiệp; lưu lượng xả nước thải lớn nhất là 282,45 m3 /ngày đêm; chế độ xả nước thải liên tục 24/24 giờ. Khí thải từ ống khói lò hơi của dự án là 12 tấn/giờ; lưu lượng xả khí tối đa 45.000 m3/h.

Hệ thống xử lý bụi, khí thải lò hơi được thiết kế đồng bộ, gắn liền với lò hơi, dự án sử dụng ống thép CT3, dày 4 mm để thu gom khí thải, bụi từ lò hơi về các công đoạn xử lý bụi, khí thải. Khu vực đặt dây chuyền sản xuất phải được bố trí hợp lý, cách ly với khu vực văn phòng và các dự án lân cận; trang bị dụng cụ bảo hộ chống ồn cho công nhân tại các công đoạn phát sinh tiếng ồn lớn; bố trí thời gian sản xuất, chế độ ca kíp hợp lý để tránh làm việc quá lâu trong khu vực có tiếng ồn cao; trồng cây xanh quanh các nhà xưởng tạo dải phân cách, hạn chế sự lan truyền tiếng ồn sang các khu vực lân cận.

Công ty phải báo cáo kịp thời về cơ quan cấp giấy phép môi trường, cơ quan chức năng ở địa phương nếu xảy ra các sự cố đối với các công trình xử lý chất thải, sự cố khác dẫn đến ô nhiễm môi trường. Thời hạn của giấy phép là 10 năm.

 

Nguồn: Báo Gia Lai

Việt Nam – Trung Quốc tăng cường kết nối cơ sở hạ tầng, hợp tác chuỗi cung ứng

Ngày 19/8, tại Đại lễ đường Nhân dân, Thủ đô Bắc Kinh, ngay sau Lễ đón chính thức trọng thể, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm đã hội đàm cấp cao với Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình nhiệt liệt chào mừng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam thăm cấp Nhà nước tới Trung Quốc; bày tỏ vui mừng và chúc mừng đồng chí Tô Lâm được tín nhiệm bầu giữ cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình một lần nữa bày tỏ chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đánh giá cao những đóng góp to lớn, quan trọng của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và quan hệ Việt – Trung, cũng như sự phát triển của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đồng chí Tập Cận Bình bày tỏ tin tưởng Đảng, Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục kế thừa di sản của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, giành được những thành tựu mới to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình nhấn mạnh chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên đến Trung Quốc, cũng là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trên cương vị người đứng đầu Đảng, Nhà nước Việt Nam  có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện sự coi trọng cao và ưu tiên hàng đầu của hai Đảng, hai nước đối với quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, cho rằng đây là thời điểm quan trọng để hai nước đưa quan hệ song phương lên tầm cao mới, đi vào chiều sâu, thực chất trên mọi phương diện. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình khẳng định Việt Nam là hướng ưu tiên trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc; ủng hộ Việt Nam kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Ảnh: TTXVN

Thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm bày tỏ trân trọng và chân thành cảm ơn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gửi Điện chia buồn sâu sắc và thể hiện nhiều nghĩa cử đặc biệt trước việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần, thể hiện mạnh mẽ tầm cao quan hệ hai Đảng, hai nước và tình cảm đặc biệt giữa đồng chí Tập Cận Bình với đồng chí Nguyễn Phú Trọng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp chu đáo, trọng thị, thân tình và hữu nghị, thể hiện sâu sắc mối quan hệ “đồng chí, anh em” giữa hai Đảng, hai nước; chân thành cảm ơn đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã chúc mừng đồng chí Tô Lâm được bầu giữ cương vị mới, mong muốn cùng đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Ban Lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước Trung Quốc tiếp tục vun đắp truyền thống hữu nghị, chung tay thúc đẩy quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược.

Nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của chuyến thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và ưu tiên hàng đầu quan hệ láng giềng hữu nghị, Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược với Trung Quốc; khẳng định mong muốn cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc kế thừa và phát huy tốt truyền thống hữu nghị lâu đời giữa hai Đảng, hai nước, định hướng quan hệ Việt – Trung bước vào giai đoạn mới phát triển ngày càng ổn định, bền vững lâu dài.

Trong bầu không khí thân tình, hữu nghị, hai nhà lãnh đạo đã trao đổi về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước và quan hệ giữa hai Đảng, hai nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chúc mừng những thành tựu to lớn, quan trọng mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân Trung Quốc anh em đã đạt được dưới sự lãnh đạo “hạt nhân” của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình trong 10 năm “thời đại mới” và nhất là từ sau Đại hội XX đến nay. Nổi bật là thực hiện thành công đúng thời hạn mục tiêu “100 năm thứ nhất” về xây dựng toàn diện xã hội khá giả, hoàn thành toàn bộ trên 300 biện pháp cải cách được đề ra tại Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII cách đây 10 năm. Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng bày tỏ tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, Trung Quốc phát triển thịnh vượng, góp phần vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thông báo với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình về tình hình Việt Nam thời gian gần đây, nhất là phát triển kinh tế – xã hội, công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, quốc phòng – an ninh và hoạt động đối ngoại; đồng thời nhấn mạnh Việt Nam sẽ phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc” để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chuẩn bị và tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình chúc mừng những thành tựu mà Đảng, Nhà nước mà Nhân dân Việt Nam đạt được trong thời gian qua; tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam sẽ gặt hái nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trên sự nghiệp Đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình cao và đến 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao mà Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định.

Chia sẻ về chuỗi hoạt động ý nghĩa tại điểm dừng chân đầu tiên tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh chuyến thăm diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh sau 13 năm ra đi tìm đường cứu nước đến Quảng Châu để chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho cách mạng Việt Nam, 79 năm Cách mạng tháng Tám, thể hiện sự trân trọng của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với sự phối hợp, hỗ trợ quý báu của Trung Quốc với cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình nhấn mạnh những năm tháng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết nên “mối tình thắm thiết Việt – Hoa, vừa là đồng chí vừa là anh em”.

Về quan hệ hai Đảng, hai nước, hai đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng, nhất làtừ sau hai chuyến thăm lịch sử của Lãnh đạo cao nhất hai Đảng trong hai năm 2022 và 2023, quan hệ hai bên duy trì đà phát triển tích cực, đạt nhiều điểm sáng theo đúng các phương hướng “6 hơn”, bao gồm: tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác quốc phòng – an ninh thực chất hơn, hợp tác thực chất sâu sắc hơn, nền tảng xã hội vững chắc hơn, phối hợp đa phương chặt chẽ hơn, kiểm soát và giải quyết tốt hơn bất đồng.

Nhấn mạnh trong bối cảnh cục diện thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định Việt Nam kiên trì nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, kiên định chính sách quốc phòng “4 không”. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình khẳng định mạnh mẽ, Trung Quốc kiên trì chính sách hữu nghị với Việt Nam, luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên và sự lựa chọn chiến lược trong chính sách ngoại giao láng giềng.

Hai nhà lãnh đạo đã đi sâu trao đổi về các định hướng lớn nhằm tăng cường tin cậy, củng cố hữu nghị, nâng cao hiệu quả hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, duy trì hòa bình, ổn định trên biển, đưa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững theo đúng phương châm “16 chữ”, tinh thần “4 tốt”.

Hai đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đạt nhất trí cao về việc tăng cường tin cậy chính trị, duy trì giao lưu, tiếp xúc thường xuyên giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; coi trọng vai trò định hướng chiến lược của kênh Đảng đối với tổng thể quan hệ song phương hai nước; tiếp tục đi sâu hợp tác lý luận, thông qua các cơ chế như Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, kịp thời chia sẻ những thành quả mới nhất về lý luận và thực tiễn của mỗi Đảng, mỗi nước, có ý nghĩa thiết thực đóng góp vào sự nghiệp của mỗi Đảng, mỗi nước.

Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường và phát huy các lĩnh vực hợp tác thực chất. Theo đó, hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác an ninh, quốc phòng, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư, trong đó thúc đẩy kết nối “hai hành lang, một vành đai” với “vành đai con đường”, tăng cường kết nối cơ sở hạ tầng đường sắt, đường bộ, tăng cường hợp tác chuỗi cung ứng, hợp tác kinh tế giữa các tỉnh biên giới, tăng cường giao lưu về cải cách doanh nghiệp nhà nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị hai bên tăng cường hợp tác xây dựng các công trình lớn, mang tính biểu tượng cao, tương xứng với tin cậy chính trị, thể hiện được trình độ phát triển và khoa học công nghệ tiên tiến của Trung Quốc; đề nghị Trung Quốc hỗ trợ vốn vay ưu đãi, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư chất lượng vào các công trình cơ sở hạ tầng giao thông trọng điểm của Việt Nam, tăng cường hợp tác đầu tư vào các lĩnh vực Trung Quốc có nhiều ưu thế như kinh tế xanh, kinh tế số. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc sẵn sàng tăng cường nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam, mở rộng các văn phòng xúc tiến thương mại tại Trung Quốc; Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nông sản chất lượng cao của Việt Nam tiếp cận thị trường Trung Quốc.

Nhấn mạnh việc hai nước đang hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao năm 2025, hai đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhất trí về sự cần thiết của việc tăng cường hơn nữa giao lưu nhân dân, thúc đẩy hiểu biết, tình cảm hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nhất là thế hệ trẻ; thống nhất xác định năm 2025 là “Năm giao lưu nhân văn Việt Nam – Trung Quốc”.

Hai Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đi sâu trao đổi về nhiều vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, nhấn mạnh sự phối hợp, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương, cơ chế quốc tế trên cơ sở vì lợi ích chính đáng của hai nước và đóng góp tích cực vào lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.

Về vấn đề trên biển, hai bên đã trao đổi chân thành, thẳng thắn, nhất trí thực hiện tốt các nhận thức chung cấp cao đã đạt được, nỗ lực kiểm soát và giải quyết tốt hơn các bất đồng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị hai bên cần tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, giải quyết các bất đồng bằng các biện pháp hoà bình, tuân thủ Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982); thực hiện nghiêm túc, đầy đủ DOC và thúc đẩy COC thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982.

Thay mặt Đảng và Nhà nước Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình sớm thăm lại Việt Nam. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thưởng thức trà. Ảnh: TTXVN

Kết thúc hội đàm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình chứng kiến các Ban, Bộ, ngành, địa phương hai nước ký kết các văn kiện hợp tác trong chuyến thăm trên các lĩnh vực hợp tác trường đảng, xuất nhập khẩu nông sản, phát thanh truyền hình, nghiệp vụ truyền thông báo chí, y tế, cơ sở hạ tầng, kinh tế thương mại, công nghiệp, ngân hàng…

Tiếp đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã trân trọng mời và cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự tiệc trà. Đây là hình thức tiếp xúc đặc biệt, được hình thành và duy trì trong nhiều chuyến thăm cấp cao những năm gần đây giữa lãnh đạo cao nhất hai Đảng, hai nước, thể hiện sự coi trọng, tinh thần “đồng chí, anh em” giữa lãnh đạo hai Đảng, hai nước.

Trong không khí vui vẻ, ấm cúng, hữu nghị, hai đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cùng ôn lại truyền thống hữu nghị giữa hai Đảng, hai nước; trao đổi thân tình về văn hóa trà trong phong tục tập quán của mỗi nước; đánh giá lại các nhận thức chung vừa đạt được tại cuộc hội đàm và nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc phát triển hơn nữa quan hệ song phương trên tầm cao mới.

Nguồn: Báo đầu tư

Vươn ra ‘biển lớn’: Lời giải nào cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam?

Khó tránh những bất lợi

Chỉ ra những hạn chế của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, TS. Trần Thị Mai Thành, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ, hiện khả năng tham gia cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp FDI của doanh nghiệp nội địa Việt Nam rất yếu, đặc biệt cung ứng cho các tập đoàn lớn, không thể hiện được lợi thế cạnh tranh.

“Trong khi 90% doanh nghiệp FDI tại các nước như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan sử dụng nguồn đầu vào trong nước thì ở Việt Nam con số này chỉ khoảng 60%. Bên cạnh đó, có 30% các doanh nghiệp FDI hoàn toàn xuất khẩu, không cung cấp sản phẩm cho thị trường trong nước vì thế không có bất kỳ cơ sở nào để hình thành liên kết chuỗi giá trị trong nước” – TS. Trần Thị Mai Thành nêu.

Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, một số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước đã nâng cao trình độ tổ chức sản xuất, tăng năng suất và hiệu quả, cắt giảm chí phí giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, trở thành nhà cung ứng trực tiếp với các nhà sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và các tập đoàn đa quốc gia; tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu

Hoạt động công nghiệp hỗ trợ ngày càng phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước, tỷ lệ nội địa hóa được nâng cao trong nhiều ngành sản xuất như ngành dệt may – da giày đạt 45-50%, cơ khí chế tạo đạt hơn 30%.

Tuy vậy, Bộ Công Thương cũng nhìn nhận, việc thực hiện chính sách, pháp luật phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, nhất là trong phục vụ chế biến nông, lâm, thủy sản, phát triển nông nghiệp, nông thôn còn những tồn tại, hạn chế.

Cụ thể, hiệu quả triển khai các chính sách ưu đãi còn hạn chế; việc phổ biến, tuyên truyền về các chính sách ưu đãi đến cộng đồng các doanh nghiệp còn hạn chế và chưa được thực hiện thường xuyên, trên phạm vi rộng. Sự hiểu biết của một bộ phận doanh nghiệp về các quy định chính sách của Nhà nước còn hạn chế.

Nguyên nhân do đặc thù của sản xuất công nghiệp hỗ trợ và xuất phát điểm thấp, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được các điều kiện để hưởng chính sách ưu đãi. Một số điều kiện để hưởng ưu đãi khá ngặt nghèo, chưa thực sự phù hợp trong quá trình thực thi chính sách.

Một bộ phận doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chưa quan tâm, chủ động tìm hiểu và nắm bắt thông tin về các chính sách ưu đãi, hỗ trợ; nguồn lực hạn chế nên thường không có bộ phận chuyên trách để nghiên cứu, tìm hiểu các chính sách ưu đãi…

Theo Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA), thời gian qua, Việt Nam liên tục đón các doanh nghiệp FDI đề nghị hỗ trợ kết nối và xây dựng chuỗi cung ứng, trong đó có các doanh nghiệp đầu chuỗi từ châu Âu, châu Mỹ hay một loạt nhà cung ứng cấp 1 của Apple. Đặc biệt, các “ông lớn” này không chỉ đặt vấn đề tìm kiếm một, hai nhà cung cấp mà đều muốn tiếp cận theo chuỗi, xây dựng hệ sinh thái sản phẩm hỗ trợ tại Việt Nam. Đây rõ ràng là kỳ vọng để doanh nghiệp Việt phát triển, có vị trí then chốt hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu với những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn.

Tuy nhiên, ông Phạm Tuấn Anh – Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) chỉ ra, mối lo hiện hữu khi kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa còn lỏng lẻo, hạn chế tác động lan tỏa giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh, năng lực tổ chức quản lý, trình độ công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe của các tập đoàn đa quốc gia hoặc các doanh nghiệp đầu chuỗi.

Liên kết là con đường ngắn nhất

Theo các chuyên gia kinh tế, có một thực tế, những chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu đều được dẫn dắt bằng những tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp nào đi sau muốn nhập cuộc phải tham gia vào chuỗi này. Vì vậy, con đường ngắn nhất để doanh nghiệp Việt Nam tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu chính là liên kết với các công ty đa quốc gia. Việc liên kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với các công ty đa quốc gia được cho là con đường ngắn nhất để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ở góc độ cơ quan hoạch định chính sách, ông Phạm Tuấn Anh cũng nhìn nhận, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn khó “đặt chân” vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Để ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu hơn, nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, trong thời gian tới cần thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử… Cùng với đó, cần phải hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, tạo động lực phát triển công nghiệp.

Bộ Công Thương cũng lưu ý mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế. Liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn chậm nên chưa thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành. Sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu chưa được cải thiện rõ nét.

Hơn thế nữa, điều cần làm là tiếp tục hợp tác với các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp lớn trong và ngoài nước cùng các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nâng cao năng lực cho các nhà cung ứng nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu

Liên quan đến nội dung này, TS. Trương Thị Chí Bình- Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho hay, đây là thời điểm cần có sự đầu tư tốt hơn nữa cho lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ nội địa. Bởi vì khi làm việc với các đối tác lớn của nước ngoài, họ đặt ra yêu cầu về dây chuyền sản xuất là rất cao. Còn nếu chỉ làm ODM (nhà sản xuất thiết kế gốc) vẫn đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sản phẩm hay linh kiện hoàn chỉnh, nên cũng cần đầu tư mới rất cao. Trong khi đó, việc đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn cực kỳ khó khăn, họ rất cần được hỗ trợ lãi suất vay, đây là điều mà doanh nghiệp băn khoăn nhất.

Mặt khác, theo TS Bình, các địa phương cũng có thể hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ lãi suất vay cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chứ không thể chỉ chăm chăm trông chờ từ khâu chính sách của Chính phủ.

Ngoài ra, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho rằng nếu như chỉ chờ các doanh nghiệp FDI chiếu cố cho doanh nghiệp Việt để làm, chúng ta sẽ mãi chỉ làm được những linh kiện lặt vặt bên ngoài. Cho nên, nếu có thể được, các doanh nghiệp Việt cần ngồi đàm phán với họ. Hoặc với những công ty mới đầu tư vào Việt Nam, rất cần nắm bắt nhu cầu trước của họ nhằm chuẩn bị nếu không sẽ không kịp. Và cũng để tránh khi vào Việt Nam thì chuỗi cung ứng mới của các doanh nghiệp FDI đã có sẵn rồi.

Với những giải pháp nêu trên, cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng chính sách ưu đãi mới sẽ tạo “cú hích” cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tiếp cận nguồn vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh… Đồng thời, với cơ chế của Nhà nước mở ra, doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy, hướng tiếp cận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển dịch từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc gia công, lắp ráp sang chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI và thị trường toàn cầu nhằm tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định tự do thương mại, đưa doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Nguồn: Báo Công thương

Bổ nhiệm chức vụ thành viên HĐTV Tổng công ty Giấy Việt Nam

Cụ thể, Quyết định số 1936/QĐ-BCT nêu rõ việc bổ nhiệm có thời hạn bà Nguyễn Thanh Huyền, Trưởng ban Kiểm tra – Kiểm toán nội bộ, Tổng công ty Giấy Việt Nam giữ chức vụ Thành viên Hội đồng Thành viên (HĐTV) Tổng công ty Giấy Việt Nam. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 22/7/2024.

Chánh Văn phòng Bộ Công Thương, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Giấy Việt Nam, Thủ trưởng các đơn vị liên quan và bà Nguyễn Thanh Huyền chịu trách nhiệm thi hành quyết định kể trên.

Tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài chia sẻ cảm xúc vui mừng khi tham dự Hội nghị trao quyết định bổ nhiệm chức vụ Thành viên HĐTV Tổng công ty Giấy Việt Nam.

Thứ trưởng cho biết, để kiện toàn cũng như tăng cường đội ngũ lãnh đạo Tổng công ty Giấy Việt Nam, căn cứ nhu cầu về công tác cán bộ và đề nghị của Tổng công ty Giấy Việt Nam, Ban Cán sự Đảng Bộ Công Thương đã nhất trí với chủ trương bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Thanh Huyền, Trưởng Ban Kiểm tra – Kiểm toán nội bộ giữ chức vụ Thành viên HĐTV Tổng công ty Giấy Việt Nam.

Bổ nhiệm chức vụ thành viên HĐTV Tổng công ty Giấy Việt Nam
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài phát biểu tại buổi lễ. Ảnh: Trần Đình

Việc bổ sung nhân sự Thành viên HĐTV Tổng công ty Giấy Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình khó khăn của nền kinh tế nói chung và của ngành giấy nói riêng hiện nay.

Đồng thời, Thứ trưởng Trương Thanh Hoài nhận định, bà Nguyễn Thanh Huyền là cán bộ có năng lực, được đào tạo cơ bản, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, công tác kiểm tra, kiểm toán, có phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, giữ nguyên tắc. Được Bộ Công Thương tin tưởng giao nhiệm vụ mới, đây là sự ghi nhận, đánh giá của Bộ đối với quá trình đóng góp của đồng chí tại Tổng công ty, đồng thời là trách nhiệm lớn mà Bộ Công Thương giao cho. Vì vậy, bà Nguyễn Thanh Huyền cần tiếp tục nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, phấn đấu rèn luyện, nắm bắt thời cơ, phát huy trí tuệ tập thể, bản lĩnh, sáng tạo, cùng tập thể lãnh đạo Tổng công ty tiếp tục phát huy những thế mạnh và có những đóng góp thiết thực cho sự phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam.

Sự tham gia của bà Nguyễn Thanh Huyền vào Hội đồng thành viên sẽ là một động lực lớn để Tổng công ty tiếp tục phát triển bền vững và vươn lên tầm cao mới. Bà Nguyễn Thanh Huyền nhận nhiệm vụ Thành viên Hội đồng thành viên trong bối cảnh Tổng công ty Giấy Việt Nam đang đứng trước những cơ hội lớn để phát triển nhưng cũng phải đương đầu với không ít những khó khăn đã tồn tại nhiều năm chưa xử lý được và những thách thức liên tục phát sinh trong tương lai.

Thứ trưởng Trương Thanh Hoài tin tưởng rằng, với trọng trách được giao, bà Nguyễn Thanh Huyền sẽ đem hết năng lực, tâm trí, hết lòng cùng với Tập thể HĐTV, các cấp lãnh đạo và người lao động của Tổng công ty Giấy Việt Nam giữ vững truyền thống đoàn kết, xây dựng Tổng công ty Giấy Việt Nam vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội để phát triển toàn diện, bền vững, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Trong thời khắc được nhận nhiệm vụ mới, bà Nguyễn Thanh Huyền bày tỏ: ”Tôi ý thức sâu sắc rằng, đây là vinh dự, trách nhiệm to lớn, đồng thời là cơ hội để tôi cùng với Ban Chấp hành Đảng bộ Tổng công ty, Hội đồng thành viên và tập thể lãnh đạo quản lý của Tổng công ty dốc toàn bộ tâm sức, trí lực phục vụ Tổng công ty Giấy Việt Nam hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đề ra”.

Bên cạnh đó, đồng chí Nguyễn Thanh Huyền xin hứa sẽ thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Thành viên HĐTV đã được quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Giấy Việt Nam.

Đồng thời, tập trung sức mạnh đoàn kết thống nhất trong tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng thành viên, lãnh đạo quản lý và người lao động Tổng công ty; không ngừng rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ra sức phấn đấu, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trải qua nhiều năm phát triển, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Hiện nay, ngành nghề kinh doanh chính của công ty bao gồm sản xuất, kinh doanh bột giấy, giấy và các sản phẩm từ giấy; trồng và khai thác rừng nguyên liệu giấy; sản xuất và kinh doanh các sản phẩm từ gỗ rừng trồng (dăm mảnh, đồ gỗ các loại), sản xuất và kinh doanh giống cây nguyên liệu giấy.

Bên cạnh đó, ngành, nghề kinh doanh có liên quan đến ngành, nghề kinh doanh chính là kinh doanh thiết bị vật tư, hóa chất (trừ hóa chất nhà nước cấm); kinh doanh sắt, thép đặc chủng sử dụng cho ngành giấy; sửa chữa thiết bị chính, nhà xưởng sản xuất giấy; sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa, thiết bị phụ trợ, kết cấu kim loại ngành công nghiệp (cơ, điện và đo lường điều khiển); sản xuất và kinh doanh điện, nước, hơi nước…

 

Trần Đình 
Báo Công Thương

Công Ty CP Thương mại Dịch vụ Giấy Thuận An cùng 7 doanh nghiệp tham gia Liên minh tái chế bao bì Việt Nam

Các thành viên mới gia nhập PRO Việt Nam trong năm 2024 bao gồm: Công Ty CP Thương mại Dịch vụ Giấy Thuận An; Công Ty CP Thực Phẩm Quốc Tế (Interfood); Tổng Công ty Cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (SABECO); Công ty Sữa đậu nành Việt Nam (Vinasoy); Công ty CP Chăn Nuôi C.P. Việt Nam; Công Ty TNHH Nhà Máy Bia Heineken Việt Nam; Công Ty TNHH Bia Carlsberg Việt Nam và Công ty CP Pramac.

Các công ty thành viên mới này đều là các doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, nhập khẩu và tái chế. Với sự gia nhập của 8 thành viên mới này, PRO Việt Nam hiện nay có tổng cộng 30 thành viên, gấp 3 lần số thành viên khi mới được thành lập vào năm 2019.

z5726031756775_fde112859776a6816f51517f356cd450.jpg
Các thành viên lãnh đạo PRO Việt Nam chào mừng lãnh đạo 8 doanh nghiệp tham gia PRO Việt Nam trong năm 2024

Phát biểu tại buổi lễ, ông Jahanzeb Khan – Phó Chủ tịch PRO Việt Nam, Tổng Giám đốc Điều hành Suntory PepsiCo Việt Nam, chia sẻ: “PRO Việt Nam rất vui mừng khi chào đón các thành viên mới gia nhập Liên minh. Sự kiện này không chỉ đánh dấu sự khởi đầu của hành trình hợp tác, đổi mới và cùng nhau phát triển, mà còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp cùng nhau đưa ra những sáng kiến bền vững và hiệu quả hơn trong việc quản lý và tái chế bao bì, thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.

“Sự tin tưởng và đồng hành của ngày càng nhiều doanh nghiệp đối với PRO Việt Nam là minh chứng cho sự thành công của chúng tôi và trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với môi trường, đồng thời tạo nên nhiều sức ảnh hưởng hơn tới cộng đồng.

Chúng tôi tin rằng, với sự đoàn kết và nỗ lực của tất cả các thành viên, PRO Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và góp phần quan trọng vào công cuộc tăng trưởng xanh của Việt Nam” -ông Jahanzeb Khan – Phó Chủ Tịch PRO Việt Nam nói.

z5726031708598_a559a81f268b738f6427a3e1b57346b8.jpg
PRO Việt Nam ký kết với đại diện các doanh nghiệp

Năm 2024 là năm đầu tiên thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất ( EPR) tại Việt Nam. Trước đó, Công ty Cổ phần Tái chế bao bì – PRO Việt Nam, trực thuộc Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam, cũng chính thức trở thành đơn vị đầu tiên được Bộ TN&MT công nhận là tổ chức được ủy quyền thực hiện tái chế bao bì trên lãnh thổ Việt Nam.

Theo đó, PRO Việt Nam đang tích cực triển khai các hoạt động thu gom – tái chế nhằm hoàn thành nghĩa vụ EPR mà các thành viên giao phó. Năm 2024, PRO Việt Nam đặt mục tiêu thu gom và tái chế khoảng 70.000 tấn bao bì các loại; đẩy mạnh truyền thông thay đổi nhận thức về tiêu dùng; hỗ trợ người lao động hoạt động trong lĩnh vực thu gom.

z5726031745430_8cb93ba6b4cd0b13c61984869cfba220.jpg
Bà Trần Ngọc Ánh, Giám đốc ngoại vụ cấp cao Công Ty TNHH Nhà Máy Bia Heineken Việt Nam phát biểu

Phát biểu tại buổi lễ ký kết, bà Trần Ngọc Ánh, Giám đốc ngoại vụ cấp cao Công Ty TNHH Nhà Máy Bia Heineken Việt Nam cho rằng: Với việc trở thành thành viên của PRO Việt Nam, Heineken mong muốn góp phần thúc đẩy việc thực hiện quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Đồng thời, chung tay phát triển một hệ sinh thái thu gom, tái chế bao bì, giúp tăng tỉ lệ tái chế và giảm thiểu tỉ lệ bao bì thải ra môi trường.

Ông Nguyễn Hồng Quảng, Phó Giám đốc Kỹ thuật Vinasoy cũng khẳng định: Việc gia nhập PRO Việt Nam là cột mốc quan trọng, hơn cả một cơ hội hợp tác kinh doanh, mà là cam kết và hành động của doanh nghiệp hướng tới phát triển bền vững.

Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (Packaging Recycling Organization Vietnam – PRO Việt Nam) là tổ chức tiên phong phi lợi nhuận được thành lập từ năm 2019, bao gồm những thành viên là các công ty Việt Nam và FDI hàng đầu trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, sản xuất bao bì, bán lẻ, tái chế và nhập khẩu.

Các doanh nghiệp này có cùng chung mong muốn góp phần vì một Việt Nam Xanh – Sạch – Đẹp, bằng cách thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua việc cải thiện quá trình thu gom và tái chế bao bì sản phẩm trở nên dễ tiếp cận và bền vững hơn.

PRO Việt Nam kỳ vọng vào năm 2030, tất cả bao bì sản phẩm do các thành viên trong liên minh đưa ra tiêu thụ trên thị trường đều được thu gom và tái chế.

 

Nguồn: Báo Tài Nguyên Môi Trường