Báo cáo đánh giá tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và kiến nghị

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá nhanh tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và đưa ra các kiến nghị. Chúng tôi xin phép được đăng tải nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.

Đánh giá chung

Ngày 28/11/2023, Quốc hội đã thông qua Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); có hiệu lực từ ngày 1/1/2025. Theo đó, Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi (2023) gồm 10 chương, 83 điều (so với 6 chương, 82 điều tại Luật Kinh doanh Bất động sản 2014); trong đó có nhiều điểm mới quan trọng, thể chế hóa chủ trương, định hướng của Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 16/6/2022, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán với Luật Nhà ở sửa đổi (2023), Luật Đất đai (sửa đổi) 2024 và các luật liên quan khác.

Đây là dự án Luật quan trọng; tác động đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi cùng với Luật đất đai sửa đổi, Luật Nhà ở sửa đổi (cùng có hiệu lực từ 1/1/2025) là bước tiến lớn về hoàn thiện thể chế, thúc đẩy thị trường đất đai, xây dựng và bất động sản (BĐS) Việt Nam phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững hơn.

Thứ nhất, thống nhất và bổ sung nhiều khái niệm pháp lý quan trọng:

Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi thống nhất và làm rõ hơn phạm vi áp dụng với nhiều trường hợp cụ thể như: tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh BĐS thì phải đáp ứng các điều kiện của Luật Đầu tư; đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật về nhà ở; việc cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai…v.v.

Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung, làm rõ các khái niệm liên quan đến kinh doanh BĐS, kinh doanh dịch vụ BĐS, chuyển nhượng dự án BĐS, hợp đồng kinh doanh BĐS, hợp đồng kinh doanh dịch vụ BĐS…v.v. Đáng chú ý nhất, Luật đã làm rõ các loại BĐS theo công năng (bổ sung quy định cụ thể về các loại hình công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; bao gồm công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng, thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp) và bổ sung “phần diện tích sàn xây dựng” (trong công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình thành trong tương lai, bao gồm công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng, thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp) vào các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.

Đây là các điểm mới quan trọng, góp phần giảm tình trạng chồng chéo, mỗi nơi hiểu 1 kiểu, cán bộ thực thi không biết làm thế nào gây ảnh hưởng đến khâu thực thi pháp luật còn yếu như hiện nay; từ đó giúp giảm thời gian, chi phí triển khai dự án của DN, tăng nguồn cung để người dân có nhiều lựa chọn với mức giá hợp lý hơn. Với tổ chức tài chính, khung pháp lý được hoàn thiện và nhất quán sẽ hỗ trợ hoạt động đầu tư, cho vay, chuyển nhượng dự án và xử lý nợ xấu được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, tác động tích cực này phụ thuộc nhiều vào khâu hướng dẫn và thực tế triển khai thực hiện sau này.

Đồng thời, việc Luật lần này bổ sung quy định về phần diện tích sàn xây dựng trong các công trình xây dựng cụ thể sẽ khắc phục bất cập hiện nay khi Luật Kinh doanh bất động sản 2014 chưa điều chỉnh các loại hình sản phẩm BĐS mới phát sinh trong thực tiễn như Condotel, Officetel…v.v. Các loại hình sản phẩm này chính là phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng (mỗi “căn hộ du lịch – condotel” là một phần diện tích của công trình xây dựng các condotel), do đó, Luật mới tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho việc đầu tư, kinh doanh các sản phẩm condotel, officetel… đã có trên thực tế. Đồng thời, quy định mới cũng có khả năng bao quát hơn (quy định “quét”) nếu trong thực tiễn có thêm các sản phẩm BĐS mới trong các công trình xây dựng này.

Thứ hai, việc công khai thông tin BĐS đưa vào kinh doanh được quy định chặt chẽ hơn và bổ sung các hành vi bị cấm. Luật sửa đổi đã chi tiết hóa, hướng dẫn cụ thể về các thông tin cần cung cấp (Điều 6) gồm: địa điểm công bố thông tin, các thông tin về dự án BĐS, các thông tin về nhà ở, công trình xây dựng, về quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS…v.v. Đồng thời, để hạn chế các sai phạm, tranh chấp như trong thời gian qua, Luật sửa đổi đã bổ sung, làm rõ một số hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8); đáng chú ý như: (i) giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch, không công bố thông tin; (ii) huy động và sử dụng tiền thu bên mua, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng hình thành không đúng quy định của pháp luật; (iii) cấp và sử dụng chứng chỉ hành nghề môi giới BĐS không đúng quy định của pháp luật kinh doanh bất động sản….v.v.

Các nội dung này góp phần tăng sự công khai, minh bạch về thông tin dự án, giúp người mua có khả năng tiếp cận thêm nhiều thông tin hơn. Đặc biệt, Luật sửa đổi quy định rõ các thông tin phải được cập nhật khi có sự thay đổi sẽ ràng buộc thêm trách nhiệm của chủ đầu tư, tăng khả năng bảo vệ người mua, giảm rủi ro tranh chấpTheo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý hướng dẫn phương thức cung cấp thông tin, chế tài và tính tuân thủ pháp luật.

Thứ ba, quy định rõ và tăng điều kiện kinh doanh BĐS. Luật sửa đổi (Điều 9) quy định, khi đồng thời thực hiện nhiều dự án đầu tư BĐS, DN kinh doanh BĐS phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư; trường hợp DN kinh doanh BĐS đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án. Đồng thời, Luật sửa đổi cũng quy định các điều kiện như phải lập DN hoặc hợp tác xã (trừ quy mô nhỏ hoặc không nhằm mục đích kinh doanh), hạn mức dư nợ tín dụng và TPDN… và giao Chính phủ quy định chi tiết việc xác định kinh doanh BĐS quy mô nhỏ.

Đây là nội dung quan trọng, góp phần hạn chế rủi ro một DN thực hiện nhiều dự án mà không đủ năng lực tài chính như thời gian vừa qua, gây ra nhiều hệ lụy cho thị trường, người mua; tăng tính “chính thống” và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước khi kinh doanh BĐS. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý khâu hướng dẫn, giám sát và chế tài triển khai sau này.

Thứ tư, mở rộng quyền kinh doanh BĐS của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam. Luật đã bổ sung việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì được kinh doanh BĐS theo các hình thức tương đồng với công dân Việt Nam ở trong nước (Điều 10). Trường hợp, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì tiếp tục thực hiện như Luật KD BĐS 2014 (chủ yếu là “đầu tư, cho thuê, thuê mua” nhà ở, hạ tầng kỹ thuật; không quy định được “mua” nhà ở)Quy định này sẽ giúp đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, phát triển BĐS tại Việt Nam một cách hợp lý, trong kiểm soát; làm rõ điều kiện được “mua” nhà ở. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý xây dựng các quy định về việc quản lý “chính chủ” do việc xác định trong thực tế sẽ không dễ dàng.

Thứ năm, kết cấu lại, bổ sung, làm rõ các quy định liên quan đến từng loại hình BĐS được đưa vào kinh doanh tại các Chương II (Kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn), Chương III (Kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai) và Chương IV (Kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS), trong đó, các nội dung mới đáng chú ý như sau:

– Đối với việc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn: Luật quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu là khi bên mua, bên thuê mua đã nhận bàn giao nhà ở, công trình xây dựng (trong khi quy định hiện tại là khi bên bán bàn giao nhà, công trình xây dựng cho bên mua). Như vậy, so với Luật 2014, Luật sửa đổi đã quy định rõ hơn về việc quyền sở hữu chỉ được xác lập khi bên mua đã chấp nhận nhận bàn giao nhà ở, từ đó giúp hạn chế các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi của người mua BĐS.

– Đối với việc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Nhiều quy định mới đã được bổ sung hoặc làm rõ hơn như: (i) quy định chi tiết, cụ thể hơn các điều kiện đưa nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai vào kinh doanh (Điều 24); (ii) luật hóa việc triển khai hình thức đặt cọc vốn đang gặp nhiều sai phạm trong thời gian qua (cho phép chủ đầu tư dự án BĐS được phép thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua) (Điều 23); (iii) giảm tỷ lệ thanh toán khi mua nhà ở hình thành trong tương lai, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà ở, không quá 95% khi bên mua, bên thuê mua chưa được cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Đối với giao dịch thuê mua, số tiền thanh toán trước cho bên cho thuê mua không quá 50% giá trị nhà ở (thay vì 70% như hiện nay); (iv) cho phép người mua được lựa chọn việc có hoặc không có bảo lãnh cho nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với mình (Điều 26). Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần lưu ý làm rõ, nếu người mua không yêu cầu có bảo lãnh NH, thì chủ đầu tư phải có bảo lãnh NH trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai hay không? (Điều 26 chưa nêu rõ).

Đây là các nội dung mang tính đột phá, giúp đa dạng hóa các hình thức huy động vốn của chủ đầu tư để giảm áp lực dòng tiền khi triển khai dự án; đảm bảo thống nhất triển khai giữa các Bộ, ngành, địa phương và thực hiện cam kết của DN khi thực hiện dự án BĐS; tăng lựa chọn cho khách hàng về khía cạnh bảo lãnh, góp phần giảm chi phí giá thành (do có thể chủ đầu tư tính chi phí bảo lãnh vào giá BĐS). Tuy nhiên, người mua nhà cũng sẽ phải chấp nhận rủi ro nhất định (khi không có bảo lãnh). Vì thế, việc xem xét lựa chọn kỹ chủ đầu tư, tính pháp lý và khả thi của dự án là rất quan trọng.

– Đối với việc kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS: Luật sửa đổi quy định chặt chẽ hơn về việc kinh doanh quyền sử dụng đất, cụ thể: (i) Bổ sung các quy định về việc phải hoàn thành hạ tầng kỹ thuật để đưa quyền sử dụng đất vào kinh doanh (Điều 29); (ii) Không cho phép phân lô, bán nền tại khu vực phường, quận, thành phố của đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III; và trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư dự án xây dựng nhà ở theo quy định của Luật Đất đai 2024 thì không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân tự xây dựng nhà ở (Điều 31). Các quy định mới này là rất cần thiết để kiểm soát tình trạng phân lô, bán nền khi chưa đáp ứng các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, hạn chế lừa đảo bán đất trên giấy đã xảy ra trong thời gian qua, cũng như đảm bảo các điều kiện sinh hoạt, an sinh xã hội của khu vực dự án.

Hai là, làm rõ hơn điều kiện của dự án chuyển nhượng (Điều 40) như dự án không bị đình chỉ, phải thực hiện giải chấp nếu đang thế chấp, dự án còn trong thời gian thực hiện, dự án chuyển nhượng một phần phải đảm bảo tính độc lập của phần chuyển nhượng; bổ sung trách nhiệm của bên nhận chuyển nhượng là phải cam kết tiếp tục triển khai dự án theo đúng nội dung đã được phê duyệt, nếu thay đổi thì phải xin phép, phải hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ tài chính trước khi chuyển nhượng; việc chuyển nhượng dự án phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật liên quan như đầu tư, đất đai. Ba là, hướng dẫn chi tiết hơn về thẩm quyền chuyển nhượng dự án BĐS (Điều 41) bằng việc bổ sung trường hợp thực hiện theo Luật Đầu tư: nếu dự án được chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư và bổ sung trường hợp Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho UBND cấp tỉnh cho phép chuyển nhượng.

Tuy nhiên, cần lưu ý, các điều kiện chuyển nhượng dự án BĐS có liên quan đến nợ xấu chưa được quy định rõ và việc chuyển nhượng cũng sẽ phức tạp hơn đối với DNNN (vì còn phải tuân theo các quy định của Luật quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp).

Thứ bảy, quy định trường hợp bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt. Luật quy định khi trong giao dịch mà 1 bên là chủ đầu tư dự án, DN kinh doanh BĐS, DN kinh doanh dịch vụ BĐS thì phải thanh toán thông qua tài khoản mở tại một TCTD đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (Điều 48). Đồng thời, tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải ghi đúng giá giao dịch thực tế vào trong hợp đồng; chịu trách nhiệm trong việc ghi giá giao dịch trong hợp đồng không đúng với giá giao dịch thực tế (Điều 47). Quy định này là cơ sở quan trọng để hạn chế tình trạng 2 giá trong giao dịch BĐS, gây thất thu thuế và khó khăn trong việc xây dựng dữ liệu BĐS cũng như định giá BĐS sau này.

Thứ tám, hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động của sàn giao dịch BĐS và môi giới, tư vấn và quản lý BĐS. Luật sửa đổi khuyến khích các giao dịch BĐS được thực hiện qua sàn giao dịch BĐS; bổ sung, làm rõ nhiều quy định liên quan đến nguyên tắc, điều kiện thành lập, hoạt động của sàn giao dịch BĐS (có thể giao dịch điện tử) và hoạt động môi giới BĐS. Tuy nhiên, Luật giao Chính phủ quy định, hướng dẫn chi tiết khá nhiều đối với nội dung này.

Một số quy định cụ thể đáng lưu ý như: (i) hoạt động môi giới BĐS phải có cơ sở vật chất, có nhân sự đáp ứng các tiêu chí chuyên môn, có quy chế hoạt động…; (ii) cá nhân hành nghề môi giới, tư vấn BĐS phải hoàn thành các khóa đào tạo hàng năm, có chứng chỉ hành nghề; không cho phép cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới BĐS độc lập (như vừa qua) mà phải là nhân viên của công ty môi giới BĐS; (iii) cá nhân môi giới không được hưởng hoa hồng môi giới trực tiếp từ khách hàng; (iv) qui định rõ điều kiện đối với cơ sở đào tạo kiến thức hành nghề môi giới, điều hành sàn BĐS; (v) qui định rõ các chương trình đào tạo phải theo Chương trình khung do Bộ Xây dựng ban hành.

Các quy định mới này kỳ vọng sẽ tạo tiền đề để từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp, minh bạch và để sàn giao dịch, môi giới BĐS phát huy đúng vai trò của mình. Theo đó, người mua nhà cũng được hưởng lợi, quyền lợi được bảo đảm hơn khi hoạt động trên thị trường BĐS hướng đền minh bạch và chuyên nghiệp hơn.

Thứ chín, quy định chi tiết về việc quản lý thông tin, dữ liệu và quản lý, điều tiết Nhà nước về kinh doanh BĐS. Nhận thức được tầm quan trọng của vai trò quản lý, điều tiết nhà nước cũng như hệ thống thông tin, dữ liệu về kinh doanh BĐS, đặc biệt trong bối cảnh số hóa, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động kinh doanh, quản lý BĐS như hiện nay, Luật sửa đổi đã kết cấu lại Chương V (Quản lý nhà nước về kinh doanh BĐS) thành 2 chương gồm Chương VIII (Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về nhà ở và thị trường BĐS) và Chương IX (Quản lý nhà nước về kinh doanh BĐS). Trong đó, Luật đã bổ sung, làm rõ nhiều nội dung và xác định rõ vai trò của các chủ thể liên quan, cũng như giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nhiều nội dung quan trọng để thống nhất triển khai trên toàn quốc. Tuy nhiên, Chính phủ sẽ cần quy định cụ thể trách nhiệm xây dựng, quản lý và khai thác thông tin, dữ liệu về thị trường BĐS và cho phép thí điểm một số nội dung còn chưa được giải quyết trong Luật như có chính sách thí điểm về việc dùng “đất khác” làm nhà ở thương mại nhằm giải quyết các vướng mắc hiện nay.

Thứ mười, các quy định chuyển tiếp được cụ thể hóa, góp phần giải quyết các trường hợp cụ thể và giúp DN, người dân có thêm thời gian chuẩn bị để đáp ứng các quy định mới của Luật. Luật sửa đổi quy định 13 trường hợp chuyển tiếp và cho phép các DN BĐS hoàn thiện các điều kiện hoạt động để đáp ứng quy định mới trong vòng 6 tháng kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành. Đồng thời, Luật mới quy định chi tiết về việc tiếp tục áp dụng Luật cũ 2014 hay áp dụng Luật sửa đổi 2023 đối với một số trường hợp như: dự án BĐS đã thực hiện xong thủ tục đầu tư, dự án BĐS thực hiện thủ tục điều chỉnh, chuyển nhượng dự án BĐS, ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, bảo lãnh ngân hàng…v.v.

Báo cáo đánh giá tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và kiến nghị- Ảnh 2.

Ảnh minh họa

Để đảm bảo Luật mới đi vào cuộc sống, Nhóm Nghiên cứu có sáu (6) kiến nghị

– Một là, Chính phủ chỉ đạo sớm ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đảm bảo nhất quán, đồng bộ giữa Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS sửa đổi cùng với các luật liên quan khác (nhằm khắc phục chồng chéo, vướng mắc, đảm bảo hiệu lực thực thi…), trong đó cần lưu ý các điều khoản chuyển tiếp và cho phép thí điểm những vấn đề còn chưa “chín”, còn tranh luận nhiều nhưng thực tiễn thị trường đòi hỏi điều tiết.

– Hai là, Chính phủ cần quan tâm xây dựng cơ sở thông tin, dữ liệu, chỉ số giá BĐS; ban hành qui định về xây dựng và khai thác cơ sở thông tin, dữ liệu đất đai, BĐS, trong đó cần quy định rõ trách nhiệm, cách thức thực hiện, phối hợp trong việc cung cấp, quản lý, khai thác thông tin, dữ liệu đất đai, BĐS…của các tổ chức, cá nhân liên quan; có giải pháp cụ thể nâng cao năng lực quản lý, điều tiết thị trường đất đai, BĐS, hướng tới công khai, minh bạch và chuyên nghiệp hơn.

– Ba là, cần sớm ban hành Đề án thí điểm cho phép thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng “đất khác” (không phải là đất ở); việc thí điểm nên được triển khai tại một số tỉnh, thành phố lớn… để tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc cho các dự án BĐS (đặc biệt các dự án nhà ở xã hội, nhà ở thương mại).

– Bốn là, chú trọng nội dung liên quan đến yêu cầu về chuyển đổi số, ứng dụng CNTT, chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng trong phát triển, quản lý, sử dụng đất đai và BĐS phù hợp với xu hướng hiện nay và góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam tại Cop26 (2021).

– Năm là, xem xét bổ sung, làm rõ một số nội dung của Luật sửa đổi tại các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, nhất là 4 trường hợp cụ thể sau:

(i) Về điều kiện chuyển nhượng 1 phần hoặc toàn bộ dự án BĐS: Luật sửa đổi quy định chủ đầu tư chuyển nhượng phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính về đất đai của dự án. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển dự án đầu tư, kinh doanh BĐS là một quá trình, gồm nhiều công đoạn (bồi thường, giải phóng mặt bằng; quy hoạch, thiết kế; làm hồ sơ, thủ tục và nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội; đầu tư xây dựng các công trình kiến trúc theo quy hoạch và thiết kế đã được duyệt…). Chuyển nhượng dự án là hoạt động giữa các nhà đầu tư với nhau, chưa phải là chuyển nhượng nhà ở, BĐS cho người mua cuối cùng. Nếu DN bên chuyển nhượng chưa hoàn tất các thủ tục hoặc công đoạn đầu tư, thì bên nhận chuyển nhượng dự án sẽ tiếp tục hoàn tất các công việc này. Vì vậy, quy định này có thể chưa thực sự phù hợp với thực tế, có thể kéo dài thủ tục, thời gian chuyển nhượng dự án.

(ii) Về trường hợp chuyển nhượng dự án mà bên nhận chuyển nhượng là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Luật sửa đổi quy định sẽ thực hiện theo Luật Đất đai 2024 (trong khi đó Luật Kinh doanh BĐS 2014 thì quy định bên chuyển nhượng phải làm thêm thủ tục trả lại đất cho Nhà nước, trong khi tổ chức kinh tế trong nước thì không cần). Vì vậy, cần lưu ý vấn đề này khi hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2024 và Luật Kinh doanh BĐS 2023, đảm bảo nhất quán và công bằng giữa tổ chức kinh tế trong nước và có vốn nước ngoài.

(iii) Về việc chuyển nhượng hợp đồng thuê BĐS: Luật sửa đổi chưa quy định việc chuyển nhượng hợp đồng thuê BĐS. Điều này có thể dẫn tới bên thuê không thực hiện được việc chuyển nhượng hợp đồng thuê do một số cơ quan từ chối thực hiện thủ tục liên quan với lý do chưa có quy định của pháp luật hướng dẫn trình tự, thủ tục hoặc mức thuế khi chuyển nhượng hợp đồng thuê.

(iv) Về việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Luật sửa đổi quy định việc chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS không bao gồm trường hợp mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai, trong khi căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, officetel đang nhận được sự quan tâm, đầu tư khá lớn từ người dân và doanh nghiệp. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể nội dung này.

– Cuối cùng, tăng cường tuyên truyền, phổ biến về các đạo luật đã được thông qua (nhất là Luật đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS, Luật các TCTD sửa đổi…, đặc biệt là các điểm mới, đáng chú ý và có nhiều tác động cũng như các điểm cần được làm rõ, cần được hướng dẫn đầy đủ, chi tiết hơn) cho người dân, tổ chức và các bên liên quan nhằm tăng hiểu biết, nhận thức, tuân thủ và góp ý chính sách, tăng hiệu lực thực thi trong thực tiễn.

H. Kim (Ghi theo Báo cáo của Nhóm tác giả)

An ninh Tiền tệ

Tăng trưởng kinh tế phù hợp với thực tế

Theo bà, tốc độ tăng trưởng GDP quý I năm nay là cao hay thấp?

Kinh tế thế giới được dự báo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng GDP quý I/2024 là 5,66%. Đây là kết quả tương đối khả quan, cho thấy nền kinh tế đã dần lấy được đà phục hồi với các chỉ số vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước đạt 4,63 tỷ USD, tăng hơn 7% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,2%), là động lực hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế các quý tiếp theo.

Sản xuất công nghiệp tiếp tục xu hướng hồi phục; tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ còn 68,7% trong khi cùng kỳ năm 2023 là hơn 81%. Lĩnh vực nông nghiệp tăng trưởng ổn định tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế, đảm bảo an toàn an ninh lương thực quốc gia, đồng thời gia tăng cho hoạt động xuất khẩu nông sản, thủy sản giá trị cao.

Có thể thấy, những yếu tố từ bên ngoài đã tác động khá tích cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước…?

Với nền kinh tế mở, thì bên ngoài tác động rất mạnh đến Việt Nam, cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhờ yếu tố tích cực từ bên ngoài, nên trong 3 tháng đầu năm, khách quốc tế đến Việt Nam tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2019. Điều này cho thấy, hoạt động du lịch không chỉ phục hồi, mà đã tăng trưởng so với thời điểm trước khi xảy ra đại dịch. Nhờ đó, hoạt động thương mại, dịch vụ sôi động và duy trì mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động ngoại thương tiếp tục đà tăng trưởng: kim ngạch xuất khẩu đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17%; kim ngạch nhập khẩu đạt 84,98 tỷ USD, tăng gần 14%. Đặc biệt, Chỉ số  Tâm lý tiêu dùng hay Chỉ số Niềm tin tiêu dùng tại một số thị trường là đối tác thương mại chính của Việt Nam như EU và Mỹ tăng là những tín hiệu tốt để dự báo sự khả quan của hoạt động xuất nhập khẩu trong các quý tiếp theo.

Kết quả đạt được kể trên là so với quý I/2023 (GDP chỉ tăng trưởng 3,32%), nhưng nếu so với quý IV/2023, thì kết quả không đẹp như vậy?

Quý IV/2023, GDP tăng trưởng 6,72%, cao nhất năm 2023. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,13%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,35% và dịch vụ tăng 7,29%. Sự chuyển biến tích cực của khu vực công nghiệp sau thời kỳ suy giảm âm (-0,73%) của quý I và chỉ tăng nhẹ 0,86% của quý II/2023 cho thấy sản xuất đã bước đầu hồi phục. Khu vực dịch vụ là động lực chính đóng góp cho tăng trưởng có xu hướng phục hồi tốt, cho thấy kinh tế đang hồi phục và tốt dần lên theo hướng quý sau tốt hơn quý trước.

Bối cảnh kinh tế toàn cầu được dự báo còn nhiều khó khăn, thách thức, cầu tiêu dùng thấp, cuộc chiến chống lạm phát của nhiều nền kinh tế lớn vẫn còn chật vật, bất ổn xung đột chính trị kéo dài… là những yếu tố bất lợi tiếp tục tác động tới nền kinh tế Việt Nam.

Kết quả tăng trưởng của quý I/2024 nếu so với quý IV/2023 thì chưa đột phá, nhưng tạo đà tăng trưởng cho các quý tiếp theo và dự báo về một triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ cho năm 2024. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phục hồi còn chậm, còn yếu, do suy giảm nhu cầu tiêu dùng toàn cầu.

Vì vậy, trong các quý tiếp theo, cần có nhiều giải pháp hiệu quả để “cỗ xe tứ mã” gồm thể chế và môi trường pháp lý được đổi mới đồng bộ cho phát triển kinh tế; tiêu dùng của thị trường trong nước được thúc đẩy mạnh mẽ; đầu tư công được thực hiện nhanh, tạo lan tỏa tới đầu tư tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ được đẩy mạnh.

Nhìn rộng ra, nếu so với thời kỳ trước đại dịch (năm 2019) thì sao, thưa bà?

Giai đoạn 2021-2023, nền kinh tế đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của đại dịch. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả ấn tượng so với nhiều nền kinh tế trên thế giới.

Những tháng đầu năm 2024, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng hoạt động thương mại, vận tải, du lịch đã dần hồi phục và lấy lại đà tăng trưởng gần như trước khi đại dịch xảy ra. Trong khu vực sản xuất, sự đứt gãy chuỗi cung ứng cũng dần hồi phục, sản xuất ở một số ngành trọng điểm đã và đang dần thoát khỏi tăng trưởng âm và đạt mức tăng trưởng khá.

Tuy nhiên, so với giai đoạn trước Covid-19, kinh tế nước ta chưa hoàn toàn phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng. Cụ thể, tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước và dân cư) quý I/2024 ước tăng 4,93%, cao nhất trong các quý I từ năm 2020 đến nay, nhưng vẫn thấp hơn các quý I từ năm 2017-2019. Tích lũy tài sản quý I/2024 ước tăng 4,69%, thấp hơn 3,26 điểm phần trăm so với năm 2019. Hoạt động xuất khẩu tăng 18% trong quý I/2024, nhưng trên nền năm 2023 với tăng trưởng âm (-8,5%); nhập khẩu quý I/2024 tăng 17,08% (năm 2023 là -11,08%).

Mức tăng trưởng GDP 5,66% trong quý I/2024 là khá ấn tượng, nhưng so với giai đoạn trước Covid-19 thì chưa thực sự phục hồi. Do vậy, cần phải kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát giá cả, thị trường, bảo đảm cung ứng hàng hóa và các cân đối lớn của nền kinh tế; đẩy mạnh tiêu dùng và phát triển thị trường trong nước; thúc đẩy giải ngân đầu tư công để đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế.

Với đà tăng trưởng khá ấn tượng trong quý I, mới đây, Ngân hàng Standard Chartered dự báo, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,7% trong năm 2024. Theo bà, liệu có đạt được mức tăng trưởng này?

Bước sang năm 2024, kinh tế thế giới vẫn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài. Thương mại hàng hóa toàn cầu phục hồi chậm. Thị trường hàng hóa thế giới biến động do ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội của các nước. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gay gắt, xung đột quân sự Nga – Ukraine và tại dải Gaza kéo dài, bất ổn leo thang trên Biển Đỏ.

Cùng với đó, nhiều quốc gia tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng cầu yếu khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm. Lạm phát toàn cầu đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Do đó, hầu hết các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 thấp hơn so với năm 2023.

Trên nền tăng trưởng thấp của quý I/2023, tăng trưởng trong quý I/2024 đạt 5,66%, cao nhất kể từ năm 2020 trở lại đây. Đây là bước khởi đầu thuận lợi, tạo đà cho sự phát triển của các quý tiếp theo. Tuy nhiên, trước những bất ổn chính trị toàn cầu, những khó khăn của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thử thách, đặc biệt nội lực của nền kinh tế chưa mạnh, năng lực cạnh tranh còn yếu…

Do đó, để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP 6,7% trong năm nay như dự đoán của Standard Chartered là cực khó. Tuy nhiên, 3 quý tiếp theo nếu vẫn tiếp tục đà tăng trưởng như quý I, thì dự đoán này có thể thành hiện thực.

Nguồn: Báo đầu tư

Lần đầu tiên thu thập thông tin người nước ngoài tại Việt Nam

Bộ Công an đang triển khai Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Vậy có cần thiết tiến hành điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ?

Điều tra dân số nói chung và điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ nói riêng nhằm thu thập thông tin về con người trong đời sống kinh tế – xã hội thực tế của một khu vực địa lý, một quốc gia theo các tiêu chí được áp dụng trên toàn thế giới. Các tiêu chí này không hoàn toàn thống nhất với quy định của Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia.

Cụ thể, để xác định một người được tính vào dân số của một địa bàn hành chính nào đó, điều tra dân số dựa trên khái niệm “nhân khẩu thực tế thường trú”, là những người đã cư trú ổn định trên địa bàn từ 6 tháng trở lên hoặc chưa đủ 6 tháng, nhưng có ý định cư trú ổn định lâu dài tại địa bàn, không phân biệt họ có hay không có các giấy tờ đảm bảo cư trú cần thiết như sổ hộ khẩu, giấy đăng ký tạm trú.

Trong khi đó, để được ghi nhận vào cơ sở dữ liệu dân cư của một địa phương nào đó trong Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, công dân cần thực hiện các thủ tục đăng ký hộ khẩu, đăng ký tạm trú, nếu công dân không thực hiện các thủ tục theo quy định, thì họ không được tính là dân số của địa phương họ đang thực tế thường trú.

Ví dụ, hiện có hàng triệu người đăng ký hộ khẩu thường trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng đang sinh sống và làm việc tại Đồng Nai, Bình Dương, TP.HCM, Hà Nội… Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia ghi nhận họ ở địa phương họ đăng ký hộ khẩu thường trú, nhưng điều tra dân số ghi nhận họ là dân số của địa phương họ đang làm việc và sinh sống ổn định.

Điều này dẫn đến khác biệt về số liệu dân số quản lý trên giấy tờ nhân thân với số liệu dân số trên thực tế tại một địa phương, gây khó khăn cho công tác quản lý và phân bổ nguồn lực thực tế tại địa phương.

Vì vậy, nếu không tiến hành thu thập thông tin về dân số và nhà ở, sẽ không có cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn  2021 – 2025; không có cơ sở để Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, Quốc hội nhiệm kỳ XVI xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2026 – 2030. Hơn nữa, cũng không có dữ liệu để giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết.

Bên cạnh điều tra về dân số, lần này còn điều tra về nhà ở. Thưa ông, vấn đề là người dân bao giờ cũng “bí mật” thông tin về tài sản, đặc biệt là nhà ở, đất đai?

Cuộc điều tra giữa kỳ lần này không chỉ thu thập thông tin về dân số, mà còn thu thập các thông tin về nhà ở của hộ dân cư, cùng với một số chỉ tiêu thống kê quan trọng khác để đánh giá chất lượng cuộc sống của người dân, như tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi chưa được đăng ký khai sinh, trình độ học vấn của dân cư, đặc điểm nhà ở của hộ dân cư… Những chỉ tiêu thống kê này hiện chưa thể tính toán được từ nguồn Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia.

Ít người muốn kê khai toàn bộ tài sản, đặc biệt là tài sản có giá trị lớn như nhà đất, vì vậy, điều tra viên đến từng hộ để hỏi người cung cấp thông tin và ghi đầy đủ các câu trả lời vào Phiếu điều tra điện tử (CAPI) được thiết kế trên thiết bị di động thông minh. Để hạn chế trường hợp lời khai của chủ hộ khác với thực tế tài sản, khi thu thập thông tin về nhà ở, điều tra viên phải “mục sở thị” ngôi nhà, mảnh đất, căn hộ để ghi kết quả vào phiếu điều tra.

Người nước ngoài đến Việt Nam cư trú trong thời gian nhất định, vì sao lại điều tra thông tin của họ?

Mặc dù số liệu thống kê về người nước ngoài ở Việt Nam đã được nhiều bộ, ngành quản lý, thống kê và báo cáo, nhưng hiện nay, các số liệu này còn rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa được sử dụng để phục vụ hiệu quả công tác quản lý.

Việc thu thập thông tin về nhóm người này là cơ sở để biên soạn các chỉ tiêu thống kê, giúp bước đầu có được nguồn số liệu đáng tin cậy để đánh giá quy mô, đặc điểm kinh tế – xã hội và các đặc trưng nhân khẩu học về người nước ngoài đang cư trú ở Việt Nam. Từ đó có chính sách phù hợp tạo điều kiện cho người nước ngoài sống, làm việc, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, vì đây là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế, xã hội của bất cứ quốc gia nào.

Hơn nữa, người nước ngoài được đưa vào đối tượng điều tra nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống kê và khuyến nghị của quốc tế về thống kê dân số, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Lần đầu tiên Việt Nam điều tra người nước ngoài đang sinh sống và làm việc. Ông có nghĩ đây là vấn đề phức tạp và rất khó?

Điều tra thông tin về người nước ngoài rất khó vì họ đến từ rất nhiều nơi trên thế giới và tuyệt đại đa số không biết tiếng Việt. Trường hợp người nước ngoài nghe và nói được tiếng Việt, sẽ tiến hành phỏng vấn trực tiếp; trường hợp không biết tiếng Việt, thì hỏi thông tin qua người Việt Nam sống cùng trong hộ.

Điều tra thông tin về người nước ngoài gồm 10 câu hỏi về giới tính, tuổi, quốc tịch, nơi sinh, tình trạng di chuyển, tình trạng nhà ở của hộ… Chúng tôi kết hợp phương pháp thu thập thông tin trực tiếp (qua phiên dịch) và gián tiếp (qua phiếu điều tra) với người nước ngoài. Phiếu điều tra được dịch ra 6 ngôn ngữ gồm Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và được gửi đến hộ gia đình người nước ngoài mà toàn bộ thành viên trong gia đình không thể sử dụng tiếng Việt.

Người nước ngoài muốn sinh sống, làm việc lâu dài tại Việt Nam, nên tôi tin rằng, họ sẽ thực hiện đầy đủ pháp luật của nước sở tại, hợp tác với điều tra viên trong khai báo trung thực, đầy đủ thông tin mà cuộc điều tra yêu cầu.

Nguồn: Báo đầu tư

Tiền bán tín chỉ carbon đã về

Trước đó hơn 1.000 chủ rừng ở Quảng Bình nhận được tiền từ bán tín chỉ carbon cho thấy kiếm tiền từ bảo vệ môi trường không còn là chuyện của tương lai xa nữa.

Ngoài rừng, điện gió, điện mặt trời, các dự án chuyển đổi năng lượng, thu gom và tái chế rác, nông nghiệp, lâm nghiệp… đều là những ngành tiềm năng kiếm bộn tiền từ bán tín chỉ carbon trong thời gian tới.

Rừng đem tiền về cho cộng đồng

Ngân hàng Thế giới (WB) vừa chuyển khoản tiền trị giá 51,5 triệu USD, tương đương 1.200 tỉ đồng, cho Việt Nam sau khi mua 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương nhận được khoản tiền bán tín chỉ carbon rừng từ WB.

Bà Carolyn Turk – giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam – cho biết khoản chi trả này là bước ngoặt, đánh dấu một bước nữa để Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu. Còn ông Nguyễn Ngọc Tùng – giám đốc Quỹ VinaCarbon – cho biết việc Việt Nam nhận được khoản tiền từ chuyển nhượng hơn 10 triệu tín chỉ carbon rừng đã cho thấy sự quan tâm lớn của các tổ chức nước ngoài đối với các dự án carbon tại Việt Nam.

Quảng Bình là một trong những địa phương đầu tiên được chi trả tiền bán tín chỉ carbon. Theo ông Mai Văn Minh – giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh, đến nay hơn 80 tỉ đồng tỉnh này nhận được sau khi bán tín chỉ carbon đã được chia về tận tay các chủ rừng. Riêng về các hộ dân được giao rừng thì có hơn 1.000 hộ đã được nhận khoản tiền này.

“Như năm 2023 thì mỗi hecta được chia gần 200.000 đồng. Sở mở tài khoản riêng cho các chủ rừng rồi chuyển tiền từ nguồn bán tín chỉ carbon này cho từng chủ rừng”, ông Minh thông tin.

Trong danh sách được chia tiền bán tín chỉ carbon của Quảng Bình, chủ rừng là các tổ chức, công ty lâm nghiệp được chia nhiều nhất với tổng số tiền là hơn 58 tỉ đồng. Chủ rừng là UBND các xã được chia hơn 11,5 tỉ đồng. Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân được chia tổng số tiền hơn 8 tỉ đồng. Chủ rừng là cộng đồng được chia gần 2 tỉ đồng.

Cũng theo ông Minh, đây là mức tính theo giá tín chỉ carbon của giai đoạn 2023 – 2025. Sau năm 2025 khi thị trường carbon thành tự do thì giá carbon sẽ tăng lên.

“Đây mới thí điểm trên 469.000ha rừng tự nhiên. Trong khi đó Quảng Bình còn có một diện tích rất lớn rừng trồng cũng có thể đưa vào khai thác carbon. Nếu khai thác hết có thể gấp đôi con số 4,5 triệu tấn carbon của giai đoạn thí điểm vừa qua. Đây là tiềm năng cho ngành nông nghiệp, nguồn lợi tương đương khai thác gỗ trước đây”, ông Minh nói.

Còn ông Phạm Đăng An – giám đốc VP Carbon Solutions – cho rằng mặt tích cực của việc WB chi trả hơn 1.200 tỉ đồng tiền bán tín chỉ carbon từ rừng đối với Việt Nam đó là một khoản chi trả minh bạch, mang lại lợi ích cho cộng đồng cũng như cho thấy chúng ta đã bán được tín chỉ carbon với khối lượng vượt trội khi thu được kết quả giảm phát thải vượt quá hợp đồng.

Quảng Bình sở hữu độ che phủ rừng lớn thứ hai cả nước nên rất thuận lợi cho việc phát triển theo hướng bán tín chỉ carbon từ rừng - Ảnh: QUỐC NAM

Quảng Bình sở hữu độ che phủ rừng lớn thứ hai cả nước nên rất thuận lợi cho việc phát triển theo hướng bán tín chỉ carbon từ rừng – Ảnh: QUỐC NAM

Nhiều ngành sẽ “hái ra tiền”

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Võ Trường An – phó tổng giám đốc Công ty CP Sàn giao dịch tín chỉ carbon ASEAN (CCTPA) – cho biết thị trường tín chỉ carbon năm 2024 của Việt Nam được dự báo tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với tiềm năng tăng trưởng lên đến 20%.

Nguyên nhân là do Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực giảm phát thải khí nhà kính từ các hiệp định quốc tế như thỏa thuận Paris và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Theo ông An, ngoài rừng, thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam còn có tiềm năng phát triển ở các lĩnh vực khác như năng lượng tái tạo hay trồng cây xanh đô thị. Việt Nam có tiềm năng lớn khi có nguồn năng lượng mặt trời, gió, thủy điện dồi dào. Các dự án năng lượng tái tạo có thể tạo ra tín chỉ carbon từ việc giảm phát thải khí nhà kính do sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Tương tự, TS Nguyễn Hồng Quân – viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế tuần hoàn – cho hay dư địa tín chỉ carbon năm 2024 còn lớn, không chỉ từ rừng mà còn các ngành năng lượng tái tạo, nông nghiệp…

Trong đó ngành nông nghiệp đặc biệt tiềm năng nhờ các hoạt động cải thiện điều kiện canh tác tương đối dễ dàng, có thể chuyển đổi nhanh chóng.

Ngoài ra nhiều lĩnh vực khác như xây dựng, sản xuất công nghiệp, giao thông, vận tải xây dựng cũng là lĩnh vực tiềm năng, song các lĩnh vực này cần nhiều thời gian, nguồn lực lớn để thay đổi về hạ tầng, kỹ thuật, đầu tư máy móc.

Ông Phạm Đăng An cho hay tiềm năng thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam rất lớn và đang có cơ hội thuận lợi để phát triển. Trong xu hướng chuyển dịch xanh, nhiều doanh nghiệp cũng đã cam kết và đưa ra lộ trình cắt giảm phát thải, hướng tới trung hòa carbon. Nhu cầu tín chỉ carbon lớn là cơ hội để phát triển thị trường carbon tại Việt Nam.

Tuy nhiên, ông An cho rằng thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam sẽ chưa thể sôi động ngay trong năm 2024 do nước ta mới đang trong quá trình xây dựng thị trường, dự kiến sẽ thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025 và sẽ tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028.

Với giá bán khoảng 5 USD/tấn CO2, hàng chục ngàn ha dừa tại tỉnh Bến Tre có thể mang lại thu nhập thường xuyên cho người dân trồng dừa nhờ bán tín chỉ carbon. Trong ảnh: dừa ở huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre - Ảnh: QUANG ĐỊNH

Với giá bán khoảng 5 USD/tấn CO2, hàng chục ngàn ha dừa tại tỉnh Bến Tre có thể mang lại thu nhập thường xuyên cho người dân trồng dừa nhờ bán tín chỉ carbon. Trong ảnh: dừa ở huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre – Ảnh: QUANG ĐỊNH

Cần sớm có hành lang pháp lý

TS Lê Xuân Nghĩa – viện trưởng Viện Tư vấn phát triển tài chính carbon (CODE) – cho biết muốn tạo lập được thị trường cần có ít nhất 500 – 1.000 người bán và cũng cần có 500 – 1.000 người mua cùng một đội ngũ tư vấn, kiểm toán và nhà tổ chức sàn giao dịch với hàng loạt các quy định về kỹ thuật, công nghệ, thanh toán, lưu ký…

Theo ông Nghĩa, hành lang pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất là tạo ra được hàng hóa chuẩn và ba bộ phận cấu thành thị trường (người mua – người bán – trung gian). Công việc này cần rất nhiều thời gian cả ở Chính phủ, các bộ và quan trọng hơn là doanh nghiệp, hệ thống thống kê, kiểm toán.

“Nếu Chính phủ không ban hành hạn ngạch có tính bắt buộc và thách thức và nếu doanh nghiệp không kiểm kê báo cáo được phát thải CO2 thì sẽ không có hàng hóa và cũng không có các bộ phận hợp thành thị trường. Có thể thấy để có được sàn giao dịch thí điểm vào năm 2025 và chính thức vào năm 2028 là nhiệm vụ cấp bách và phức tạp cần được chuẩn bị khẩn trương hơn hiện tại rất nhiều”, ông Nghĩa nhận định.

Theo ông Nghĩa, nghị định 06 và các thông tư hướng dẫn đã quy định các bước chuẩn bị cho việc hình thành sàn giao dịch carbon. Đặc biệt nghị định và thông tư hướng dẫn đã quy định cụ thể gần 2.800 doanh nghiệp thuộc một số ngành có phát thải carbon lớn phải có báo cáo phát thải khí nhà kính song đến nay vẫn mới có ít doanh nghiệp báo cáo.

Trong khi đó, ông Trường An cho rằng để phát triển thị trường mua bán tín chỉ carbon, Nhà nước cần phát triển và công bố các quy định chi tiết, rõ ràng về mua bán tín chỉ carbon tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cần xây dựng thị trường thương mại tín chỉ carbon để các đối tác có thể gặp nhau, thực hiện giao dịch mua bán một cách minh bạch và hiệu quả.

TP.HCM cần có cơ chế thu hút doanh nghiệp

Là địa phương đầu tiên của cả nước được trao quyền thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon để giảm phát thải khí nhà kính, các doanh nghiệp đề xuất để TP.HCM sớm tạo lập cơ chế thu hút doanh nghiệp tham gia thị trường carbon như xây dựng, ban hành cơ chế ưu đãi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

Ông Nguyễn Võ Trường An – phó tổng giám đốc Công ty CP Sàn giao dịch tín chỉ carbon ASEAN – đề xuất cần có chính sách miễn, giảm thuế, phí đối với các doanh nghiệp tham gia thị trường, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo cho các doanh nghiệp tham gia thị trường carbon. Đồng thời, TP cần thúc đẩy phát triển các dự án giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là các dự án có khả năng tạo ra tín chỉ carbon.

Nhiều địa phương vẫn đợi hướng dẫn

Ông Lê Văn Hải – chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Cà Mau – cho biết Cà Mau hiện chưa triển khai bán tín chỉ carbon, tỉnh mới đang chỉ đạo các cơ quan chuyên môn nghiên cứu về vấn đề này.

Cà Mau có hơn 94.000ha đất rừng, trong đó rừng sản xuất chiếm hơn 53.800ha, rừng phòng hộ chiếm hơn 21.400ha và hơn 18.700ha rừng đặc dụng. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý để khai thác, thương mại, phát triển thị trường carbon rừng, tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn trong việc cụ thể hóa các nội dung phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.

Dân làng Kenya thu lợi từ “bán không khí”

Theo trang thông tin của Liên Hiệp Quốc, ở Kenya, người dân tại làng ven biển đang bán tín chỉ carbon cho các tập đoàn lớn. Khi được hỏi đang kinh doanh gì, họ nói: “Chúng tôi bán không khí”.

Những người dân làng này đang tham gia vào sáng kiến “Mangroves Together” hay Mikoko Pamoja nhằm thúc đẩy bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên rừng ngập mặn để đạt được “lợi ích ba bên”: giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao sinh kế cộng đồng.

Quỹ Plan Vivo (trụ sở tại Anh) xác nhận dự án Mikoko Pamoja bán ít nhất 3.000 tấn CO2 mỗi năm trong 20 năm, 2013 – 2033, tạo ra doanh thu hằng năm khoảng 130.000 USD.

Ngành gỗ có cơ hội lớn

Ông Nguyễn Ngọc Tùng – giám đốc Quỹ VinaCarbon – cho hay tiềm năng tạo tín chỉ carbon từ các doanh nghiệp ngành gỗ để bù đắp cho các ngành công nghiệp khác tại Việt Nam nhằm giúp quốc gia đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là rất lớn.

Theo ông Tùng, Việt Nam có hơn 14 triệu ha rừng, trong số đó gần một nửa là rừng sản xuất. Nếu các doanh nghiệp ngành gỗ nhận đầu tư phát triển bền vững, giảm phát thải thì nguồn thu không chỉ đến từ các hoạt động chế biến gỗ, lâm sản mà còn từ tín chỉ carbon.

“Ví dụ hoạt động trồng rừng gỗ lớn cần đầu tư ban đầu nhiều thời gian và chi phí, tuy nhiên hiệu quả kinh tế từ sản phẩm lâm nghiệp sẽ cao hơn từ 3 – 4 lần. Ngoài ra tuổi thọ cây kéo dài cũng giúp doanh nghiệp có thêm doanh thu từ tín chỉ carbon”, ông Tùng nói.

Ai sẽ mua tín chỉ carbon?

Rừng bằng lăng Đà Cộ, Nam Cát Tiên, Đồng Nai - Ảnh: TĂNG A PẨU

Rừng bằng lăng Đà Cộ, Nam Cát Tiên, Đồng Nai – Ảnh: TĂNG A PẨU

TS Vũ Tấn Phương – giám đốc Văn phòng Chứng chỉ rừng Việt Nam (VFCO) – cho hay với diện tích rừng hiện tại khoảng 14,7 triệu ha, lượng carbon lưu giữ trong sinh khối cây rừng được ước tính là khoảng 612 triệu tấn, tương đương 2,2 tỉ tấn CO2, trong đó khoảng 80% lưu giữ ở rừng tự nhiên.

Kết quả kiểm kê khí nhà kính quốc gia cho thấy lâm nghiệp là lĩnh vực duy nhất có phát thải ròng âm, tức lượng hấp thụ carbon của rừng lớn hơn lượng phát thải. Tính trung bình trong giai đoạn 2010 – 2020, lượng phát thải ròng trung bình/năm trong lâm nghiệp khoảng -40 triệu tấn CO2 tương đương. Nếu quy ra giá trị bằng tiền để giảm 40 triệu tấn CO2 tương đương sẽ khoảng 3.500 tỉ đồng với giả định chi phí giảm phát thải 1 tấn CO2 tương đương là 5 USD.

Ông Phương cho hay việc thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lâm nghiệp sẽ góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam và tạo nguồn tài chính bổ sung từ các hoạt động mua bán, trao đổi và thương mại tín chỉ carbon tại thị trường carbon trong nước và quốc tế.

“Hiện nay Chính phủ đang xây dựng thị trường carbon trong nước và khi đi vào hoạt động sẽ mở ra các cơ hội về mua bán, trao đổi, thương mại tín chỉ carbon giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư cho giảm phát thải khí nhà kính và tăng hấp thụ carbon trong các hoạt động lâm nghiệp”, ông Phương nói.

Thị trường carbon trên thế giới đang khá sôi động với sự tham gia của nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đặt mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 và theo sát các mục tiêu khí hậu toàn cầu.

Trong xu hướng chuyển dịch xanh, số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm lượng phát thải ngày càng tăng lên. Đây chính là nhóm khách hàng tiềm năng mua tín chỉ carbon và chứng chỉ năng lượng tái tạo (RECs) tại Việt Nam.

Bên cạnh đó sẽ có các đơn vị, tổ chức quốc tế như các ngân hàng, quỹ đầu tư, quỹ hợp tác toàn cầu… tham gia như một phần của thị trường. Còn tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nội cũng đã rục rịch tìm mua tín chỉ carbon và tìm cách giảm phát thải để tránh bị đánh thuế, giảm lợi thế cạnh tranh khi xuất hàng sang EU.

Ông Phạm Đăng An – giám đốc VP Carbon Solutions – cho hay dù chưa vận hành thị trường tín chỉ carbon chính thức nhưng Việt Nam đã gián tiếp tham gia các hoạt động mua bán tín chỉ carbon thông qua một số đề án như Cơ chế phát triển sạch (CDM). Tuy nhiên, con số này còn rất khiêm tốn so với tiềm năng thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam.

Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon là cần thiết giúp khai thác tiềm năng này, đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch xanh, hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050 của Việt Nam.

Hiện Việt Nam đang trong quá trình xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon cũng như xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon. “Khi thị trường đi vào hoạt động, sẽ có sự tham gia của cả các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp quốc tế. Thị trường sẽ vận hành hiệu quả khi có hành lang pháp lý phù hợp”, ông An nói.

Tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một lượng khí CO2 hoặc một lượng khí nhà kính khác quy đổi sang CO2 tương đương. Một tín chỉ tương đương 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn CO2 quy đổi tương đương.

 

Nguồn: Báo tuổi trẻ

Trung Quốc: Sản xuất chế tạo lần đầu tiên tăng trưởng sau 6 tháng

Kết quả trên là tin tốt cho các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc ngay cả khi cuộc khủng hoảng bất động sản của nước này vẫn đang là lực cản đối với nền kinh tế và niềm tin của nhà đầu tư.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) chính thức của Trung Quốc đã tăng lên 50,8 điểm trong tháng 3, từ mức 49,1 của tháng 2 và cao hơn mức dự báo trung bình 49,9 điểm trong cuộc thăm dò trước đó của Reuters.

Mặc dù tốc độ tăng còn khiêm tốn nhưng đây cũng là chỉ số PMI cao nhất kể từ tháng 3 năm ngoái, khi động lực tăng trưởng từ việc gỡ bỏ các biện pháp chống dịch Covid-19 cứng rắn bắt đầu chững lại.

Zhou Maohua, nhà phân tích của Ngân hàng Everbright Trung Quốc, cho rằng: “Nhìn vào các chỉ số, thì cung và cầu trong nước đã được cải thiện; khi niềm tin của chủ sở hữu nhà và doanh nghiệp đang phục hồi, thì mức độ sẵn sàng tiêu dùng và đầu tư cũng sẽ tăng lên”.

Dữ liệu PMI tháng 3 cho thấy Trung Quốc ghi nhận số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng lên mức tích cực, đảo ngược mức sụt giảm kéo dài 11 tháng qua. Tuy nhiên, tình hình việc làm vẫn tiếp tục sụt giảm, mặc dù với tốc độ chậm hơn.

Các chỉ số lạc quan gần đây cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang dần lấy lại trạng thái tốt hơn, khiến các nhà phân tích bắt đầu nâng dự báo tăng trưởng năm nay đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Đơn cử, tập đoàn dịch vụ tài chính Citi tuần này đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Trung Quốc lên 5,0%, từ mức 4,6%, với lý do “dữ liệu tích cực gần đây và việc đưa ra chính sách”.

Theo phản ánh của Reuters, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đã phải vật lộn với tình trạng trì trệ kinh tế kéo dài kể từ khi dỡ bỏ các biện pháp chống dịch Covid-19 vào cuối năm 2022, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng bất động sản của nước này ngày càng lún sâu, nợ chính quyền địa phương gia tăng và nhu cầu toàn cầu suy yếu.

“Dữ liệu tháng 3 cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đã sẵn sàng cho một kết thúc mạnh mẽ trong quý I”, công ty tư vấn China Beige Book nhận xét. “Việc tuyển dụng đã ghi nhận khoảng thời gian cải thiện dài nhất kể từ cuối năm 2020. Sản xuất cũng như bán lẻ đều tăng trưởng”.

Tuy nhiên, suy thoái bất động sản ngày càng sâu sắc vẫn là lực cản lớn đối với tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, bên cạnh vấn đề nợ của chính quyền các địa phương và bảng cân đối kế toán của các ngân hàng quốc doanh.

Tháng 3 ghi nhận chỉ số PMI phi sản xuất chính thức của Trung Quốc, bao gồm lĩnh vực dịch vụ và xây dựng, đã tăng lên 53 điểm, từ mức 51,4 trong tháng 2, đánh dấu mức cao nhất kể từ tháng 9.

Đầu tháng này, Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường đã công bố mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024 là khoảng 5% tại cuộc họp thường niên của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc.

Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ cần tung ra nhiều biện pháp kích thích hơn để đạt được mục tiêu tăng trưởng trên.

Thực tế, chính phủ Trung Quốc vào đầu tháng này đã thông qua một kế hoạch nhằm thúc đẩy nâng cấp thiết bị trên quy mô lớn và bán hàng tiêu dùng. Kế hoạch này được kỳ vọng có thể tạo ra nhu cầu thị trường trị giá hơn 5 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương 691,63 tỷ USD) mỗi năm.

Nhiều nhà phân tích lo ngại rằng nền kinh tế Trung Quốc có thể bắt đầu rơi vào tình trạng đình trệ kiểu Nhật Bản vào cuối thập niên này, nếu các nhà hoạch định chính sách không thực hiện các biện pháp định hướng lại nền kinh tế theo hướng tiêu dùng hộ gia đình và phân bổ nguồn lực theo thị trường, đồng thời thoát khỏi sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư cơ sở hạ tầng như trước đây.

Nguồn: Báo đầu tư

HHP Paper HẢI PHÒNG phát triển bền vững cùng chứng nhận xanh LEED SILVER

Với mục tiêu “hướng đến con người” trong quá trình xây dựng doanh nghiệp bền vững, Nhà máy HHPPaper Hải Phòng thuộc Công ty cổ phần HHP GLOBAL (HHP) đã được đầu tư xây dựng để đạt tiêu chuẩn LEED (Leadership in Energy and Environmental Design), nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, cải thiện môi trường và tiết giảm chi phí vận hành.

Hiện Nhà máy HHPPaper Hải Phòng là dự án đầu tiên trong ngành sản xuất giấy tại Việt Nam đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn LEED và đã được Hội đồng Công trình xanh Hoa Kỳ (U.S. Green Building Council) cấp chứng nhận LEED SILVER vào tháng 1/2024 vừa qua.
Tổng giám đốc Công ty CP HHP GLOBAL Trần Thị Thu Phương cho hay, từ quá trình thiết kế ban đầu, LEED đã yêu cầu toàn bộ nhóm dự án (bao gồm thiết kế kiến trúc, thiết kế cơ điện, chủ đầu tư, và bộ phận vận hành kỹ thuật của chủ đầu tư sau này) phối hợp chặt chẽ với tư vấn LEED để tích hợp tất cả giải pháp với mục tiêu đảm bảo dự án đáp ứng được yêu cầu từ chủ đầu tư, đồng thời thỏa mãn yêu cầu cao từ Chứng nhận LEED.

Về thiết kế, một phần khuôn viên của Nhà máy HHPPaperHải Phòng được sử dụng làm khu vực đỗ xe cho các phương tiện giao thông, ưu tiên các phương tiện công cộng, phương tiện ít phát thải. Tại nhà máy khuyến khích sử dụng xe đạp vì tính tiện lợi và thân thiện với môi trường, tránh ô nhiễm không khí, cũng như thúc đẩy ý thức về giao thông bền vững trong cộng đồng nhân viên.
Nhà máy đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu hiệu ứng đảo nhiệt và chi phí làm mát bằng cách lắp đặt hệ thống mái có khả năng phản xạ cao và độ phản quang thấp. Đây là một lựa chọn được các chuyên gia đánh giá cao về chất lượng và hiệu suất. Việc đầu tư vào hệ thống mái hiệu quả này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, còn mang lại sự thoải mái và tiện nghi cho người sử dụng. Việc này cũng đóng góp vào việc giảm thiểu hiệu ứng đảo nhiệt, giúp môi trường làm việc trở nên dễ chịu và tiết kiệm năng lượng trong quá trình làm mát nhà máy.

Hệ thống đèn LED chiếu sáng trong nhà xưởng. Ảnh: HHP Global cung cấp

Tại Nhà máy HHPPaper Hải Phòng cũng sử dụng hệ thống đèn LED thông minh được trang bị cảm biến tự động, là giải pháp giúp tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải ra môi trường, giảm thiểu tác động của ánh sáng nhân tạo đến sức khỏe của nhân viên trong môi trường làm việc.
Theo Giám đốc Nhà máy HHPPaper Hải Phòng Trần Trung Kiên, HHPPaper Hải Phòng đồng thời cam kết sử dụng nguồn nước hiệu quả để bảo vệ nguồn tài nguyên này. Theo đó, nhà máy đầu tư vào hệ thống xử lý nước thải với công suất 3.500m3/ngày đêm, đảm bảo lượng nước sản xuất được tuần hoàn và tái sử dụng lên đến 70%.  Bước tiếp theo trong việc sử dụng nước hiệu quả là hạn chế việc sử dụng nước không đúng mục đích và ưu tiên sử dụng thiết bị tiết kiệm nước, tận dụng nguồn nước không uống được như nước mưa và nước tuần hoàn tái sử dụng để đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt tại nhà máy.
Ngoài ra, để hạn chế sử dụng nước uống được cho việc tưới cây, nhà máy đã lát các loại gạch thấm nước trên đường nội bộ để nước mưa có thể thấm vào đất và giảm nguy cơ ngập lụt. Đồng thời, lắp đặt hệ thống thu thập nước mưa bằng các máng xối và ống dẫn dọc các tòa nhà, sử dụng vòi tưới cây tiết kiệm nước, ưu tiên trồng các loại thực vật chịu hạn ở khu vực cảnh quan, giúp giảm nhu cầu về nước tưới. Bằng cách kết hợp này đã cắt giảm được 78% lượng nước tưới tiêu và 47% lượng nước tiêu thụ của các thiết bị vệ sinh trong nhà máy so với mức bình thường.

Nhà máy HHPPaper HẢI PHÒNG đã được Hội đồng Công trình xanh Hoa Kỳ (U.S. Green Building Council) cấp chứng nhận LEED SILVER (Leadership in Energy and EnvironmentalDesign) vào tháng 01 năm 2024.

Song song với các giải pháp thiết kế, hiệu quả vận hành quản lý nhà xưởng, Nhà máy HHPPaper Hải Phòng tuân thủ các tiêu chuẩn về tiết kiệm năng lượng và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo một cách tối ưu nhằm tăng khả năng thích ứng của công trình với biến đổi của môi trường, hướng tới kiến tạo một thế giới xanh.
Tại nhà máy sử dụng các bóng đèn LED tiết kiệm điện, bật tắt theo thời gian cụ thể và không gian bố trí ánh sáng phù hợp giúp giảm thiểu lượng điện tiêu thụ trong tòa nhà. Sử dụng hệ thống đèn thông minh và độc lập tại mỗi tầng. Hệ thống này sẽ tự động tắt đèn sau khoảng 5 phút khi không có người sử dụng.
Đặc biệt, nhà máy sử dụng các tấm tôn lợp mái kèm cách nhiệt túi khí có bề dày 4mm với tổng giá trị truyền nhiệt thấp (U=2.4 W/m2) để giảm bức xạ mặt trời xâm nhập vào tòa nhà và giảm bớt năng lượng cần thiết cho việc làm mát. Hệ thống đo đạc năng lượng cũng được áp dụng để giám sát năng lượng tiêu thụ, từ đó theo dõi và đánh giá hiệu suất sử dụng năng lượng trong toàn bộ quá trình sản xuất.
Bên cạnh đó, để tối ưu hóa việc làm mát, tại nhà máy đã lắp đặt hệ thống điều hòa cục bộ cho các khu vực văn phòng của tòa nhà. Hệ thống này được thiết kế với hiệu suất tối thiểu là 3,4 COP, giúp tiết kiệm năng lượng và giảm chi phí vận hành. Hệ thống này cũng hoạt động rất êm và cho phép người dùng kiểm soát nhiệt độ môi trường theo ý muốn. Không chỉ dừng ở đó còn thân thiện với môi trường vì không sử dụng môi chất CFC trong quá trình làm mát.

Hệ thống xử lý nước thải với công nghệ tiên tiến có khả năng tuần hoàn tái sử dụng nước lên tới 70%. Ảnh: HHP Global cung cấp

Giám đốc Nhà máy HHPPaper Hải Phòng chia sẻ, hiện nhà máy cũng đầu tư lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời áp mái với công suất lắp đặt 1.181 kWp nhằm giảm tiêu thụ điện từ năng lượng hóa thạch, tăng cường sử dụng nguồn năng lượng tái tạo. Những nỗ lực này không chỉ mang lại lợi ích về giảm chi phí năng lượng, mà còn góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường. Đây sẽ là bước tiến vững chắc trong hành trình phát triển bền vững và cam kết thực hành ESG, hướng tới mục tiêu Net Zero trước năm 2035.
Với mục tiêu phát triển xanh, ngay từ ngày đầu khâu thiết kế đến quá trình đầu tư xây dựng, Nhà máy HHPPaper Hải Phòng nhận thức quá trình phân loại chất thải ngày càng trở nên quan trọng nên đã đầu tư các thiết bị, hệ thống, công trình lưu giữ chất thải nguy hại, chất thải rắn công nghiệp thông thường, chất thải rắn sinh hoạt đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo quy định tại Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 10/1/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, nhà máy tập trung đầu tư hệ thống thông gió đạt chuẩn yêu cầu ASHRAE 62.1-2010. Thực tế, chất lượng hệ thống thông gió đạt ngưỡng trên 30% so với mức tối thiểu theo tiêu chuẩn ASHRAE 62.1-2010. Điều đó có nghĩa là nhà máy luôn cung cấp không khí trong lành, đảm bảo sức khỏe nhân viên cũng như giúp cải thiện năng suất lao động.
Không gian nội thất được thiết kế để phần lớn người sử dụng có thể tận hưởng ánh sáng tự nhiên và quang cảnh bên ngoài cửa sổ. Hơn 75% không gian thường xuyên sử dụng đều đạt được độ sáng từ 25 đến 500fc trong điều kiện trời quang, không chỉ giúp cải thiện tâm trạng và hiệu suất làm việc mà còn giúp tiết kiệm năng lượng và tạo ra một không gian sống và làm việc bền vững và thân thiện với môi trường.

Khánh thành Nhà máy HHPPaper Hải Phòng ngày 23/12/2023
Không những vậy, việc tối đa hóa ánh sáng tự nhiên trong toàn bộ khu vực nhà máy giúp giảm nhu cầu về sử dụng đèn điện, giúp tiết kiệm được năng lượng cũng như tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Để đảm bảo không khí trong lành ở bên trong nhà máy, Nhà máy HHPPaper Hải Phòng đã ban hành các quy định về cấm hút thuốc bên trong nhà xưởng, bố trí sắp đặt khu vực hút thuốc bên ngoài khuôn viên nhà xưởng cách tối thiểu 7,5m với vị trí cửa ra vào.
Như vậy, thông qua tối ưu hóa các giải pháp, việc áp dụng Chứng nhận LEED mang lại nhiều lợi ích đối với hoạt động sản xuất, cũng như đóng góp vào triết lý “Phát triển cho hôm nay, nhưng bền vững cho thế hệ tương lai” của Nhà máy HHPPaper Hải Phòng. Qua đó hướng tới thúc đẩy sự phát triển bền vững trong cộng đồng doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là doanh nghiệp ngành sản xuất giấy tại Việt Nam nói riêng.
Nguồn: bnews.vn

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU ảnh hưởng tới xuất khẩu của quốc gia ASEAN

Báo cáo Đánh giá sự ổn định thị trường vốn năm 2023 của SC cho hay, mặc dù chỉ chiếm 8% tổng xuất khẩu của Malaysia trong giai đoạn 2021 – 2023, song nhiều chính sách liên quan đến môi trường, khí hậu, xã hội và quản trị (ESG), đặc biệt là CBAM của EU có khả năng ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp Malaysia.
SC cũng lưu ý rằng, EU ngày càng đưa ra nhiều tiêu chuẩn liên quan đến ESG ở cấp độ quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp Malaysia cần phải tuân thủ, kịp thời nắm bắt thông tin để có định hướng kinh doanh phù hợp.

Trong bối cảnh này, SC đang xây dựng một nghiên cứu đánh giá mức độ rủi ro, tác động của các quy định ESG đối với các công ty đại chúng (PLC) để nhấn mạnh tính cấp thiết của việc chuyển đổi hoạt động kinh doanh theo hướng bền vững.

Để đạt được mục tiêu này, SG đã chủ trì một ủy ban cố vấn về phát triển bền vững, trong đó có nhiệm vụ xác định khả năng sử dụng các quy định của Ủy ban Tiêu chuẩn Bền vững Quốc tế (ISSB) ở Malaysia, cung cấp thông tin và xây dựng các khuôn khổ hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước.

SC khẳng định rằng đây là một phần trong nỗ lực của SC nhằm góp phần giảm sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn ESG quốc tế và địa phương.
Các công ty ở Malaysia tham gia vào các lĩnh vực truyền thống sử dụng nhiều carbon hoặc hoạt động trong những ngành gây phát thải khí carbon cao đang phải đối mặt với nhiều rủi ro khi các nhà đầu tư, khách hàng có sự điều chỉnh chính sách thương mại, đầu tư theo cơ chế CBAM của EU.

Nguồn: bnews.vn

Từ ngày 15-5, giá điện sẽ được điều chỉnh 3 tháng một lần

Ngày 26-3, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký ban hành Quyết định số 05/2024/QĐ-TTg quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân. Từ ngày 15-5-2024, Quyết định này thay thế Quyết định 24 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Về cơ chế điều chỉnh giá bán điện bình quân hằng năm, Quyết định 05 nêu rõ trường hợp giá bán điện bình quân tính toán giảm từ 1% trở lên so với giá bán điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có trách nhiệm giảm giá bán điện bình quân ở mức tương ứng. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, EVN có trách nhiệm lập hồ sơ báo cáo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan để kiểm tra, giám sát.

Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 3% đến dưới 5% so với giá bán điện bình quân hiện hành, EVN quyết định điều chỉnh tăng giá bán điện bình quân ở mức tương ứng. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, EVN lập hồ sơ báo cáo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan để kiểm tra, giám sát.

Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 5% đến dưới 10% so với giá bán điện bình quân hiện hành, EVN được phép điều chỉnh tăng giá bán điện bình quân ở mức tương ứng sau khi báo cáo và được Bộ Công Thương chấp thuận.

Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phương án giá của EVN, Bộ Công Thương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản để EVN triển khai thực hiện. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn EVN có trách nhiệm báo cáo Bộ Công Thương.

Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 10% trở lên so với giá bán điện bình quân hiện hành hoặc ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vĩ mô, trên cơ sở hồ sơ phương án giá điện do EVN trình, Bộ Công Thương chủ trì kiểm tra, rà soát và gửi lấy ý kiến Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan.

Trên cơ sở ý kiến góp ý của Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan, Bộ Công Thương tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến. Trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá trước khi báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

So với quy định cũ, Quyết định 05 đã thay đổi chu kỳ điều chỉnh giá điện bình quân. Theo đó, thời gian điều chỉnh giá bán điện bình quân tối thiểu là 3 tháng kể từ lần điều chỉnh giá điện gần nhất (quy định cũ là 6 tháng).

Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ cũng giao Bộ Công Thương có trách nhiệm hướng dẫn EVN tính toán giá bán điện bình quân theo quy định; thực hiện việc điều chỉnh giá điện; chủ trì kiểm tra, giám sát theo quy định.

Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương thực hiện Quyết định này với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về giá. Các Bộ, cơ quan liên quan có ý kiến tham gia, phối hợp đối với các nội dung liên quan trong phạm vi được phân công quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật. Tổng cục Thống kê có trách nhiệm đánh giá tác động của việc điều chỉnh giá điện đến kinh tế vĩ mô.

Minh Chiến

Nguồn: Báo mới

Cần Thơ: Doanh nghiệp giải thể, bỏ địa điểm kinh doanh, tạm ngưng gấp hơn 3 lần thành lập mới

Theo Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 3 và quý I năm 2024 của Cục Thống kê TP. Cần Thơ, trong quý I/2024, thành phố cấp mới đăng ký kinh doanh cho 351 doanh nghiệp, đạt 19,5% kế hoạch, với tổng vốn đăng ký 2.749,8 tỷ đồng, đạt 21,15% kế hoạch. So cùng kỳ năm 2023, số doanh nghiệp đăng ký giảm 10,23% và số vốn đăng ký mới tăng 38,9%.

Tuy nhiên, tính từ ngày 1/1/2024 đến 29/2/2024, tình hình biến động giải thể, bỏ địa điểm kinh doanh, tạm ngưng với tổng số 1.066 doanh nghiệp, gấp hơn 3 lần so với doanh nghiệp thành lập mới trong cả quý I/2024. Trong đó, số doanh nghiệp giải thể, bỏ địa chỉ kinh doanh… với tổng số 188 doanh nghiệp (9 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể; 80 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể; 99 doanh nghiệp bỏ địa điểm kinh doanh) và 878 doanh nghiệp ngừng hoạt động có thời hạn.

Bên cạnh đó, tình hình thu hút đầu tư cũng không mấy khả quan. Lũy kế quý I/2024, trên địa bàn TP. Cần Thơ chỉ có 1 dự án đầu tư trong nước được UBND thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư, với vốn đầu tư đăng ký 150 tỷ đồng.

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong quý I năm 2024, thành phố chưa cấp dự án đầu tư mới. Chỉ có 1 dự án FDI trong khu công nghiệp được điều chỉnh tăng vốn thêm 18,93 triệu USD.

Lũy kế trên địa bàn thành phố hiện có 81 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 2.274,97 triệu USD (Trong đó, tại các khu công nghiệp có 29 dự án, với tổng vốn đăng ký 611,98 triệu USD; ngoài khu công nghiệp có 52 dự án, tổng vốn đăng ký 1.662,99 triệu USD).

Về xu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh, theo Cục Thống kê TP. Cần Thơ, qua kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024 so với quý IV/2023 cho thấy, đa số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn. Dự kiến quý II/2024 so với quý I/2024, có 40% doanh nghiệp đánh giá xu hướng tốt hơn và chỉ 20% doanh nghiệp đánh giá tình hình vẫn còn khó khăn.

Về khối lượng sản xuất, có 24% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2024 tăng so với quý trước; 38% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 40% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 17% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng mới, có 22,11% số doanh nghiệp đánh giá doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng mới quý I/2024 tăng so với quý trước; 32,63% số doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng mới giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2043, có 38,54% số doanh nghiệp dự báo đơn đặt hàng mới sẽ tăng; 13,54% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2024 so với quý trước, có 20,83% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; 22,92% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 43,75% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 12,50% số doanh nghiệp dự kiến giảm.

Nguồn: Báo Đầu tư

Lãi vay giảm, doanh nghiệp cạn tài sản thế chấp

Lãi vay giảm khi tín dụng khó tăng

Mặt bằng lãi suất cho vay giảm dần khi lãi suất huy động xuống sâu, song tăng trưởng dư nợ toàn ngành vẫn âm trong 2 tháng đầu năm nay.

Nhằm thu hút khách hàng, nhiều ngân hàng tiếp tục giảm lãi cho vay. Sacombank triển khai nguồn vốn 10.000 tỷ đồng với lãi suất siêu ưu đãi chỉ 3%/năm, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng cá nhân và doanh nghiệp đến hết quý I/2024.

Trong khi đó, SHB đồng loạt giảm lãi suất các gói vay ưu đãi xuống còn từ 5,79%/năm. Với cá nhân, lãi suất vay được điều chỉnh giảm xuống 6,39%/năm đối với khoản vay ngắn hạn và 5,79%/năm đối với khoản vay trung – dài hạn. Đồng thời, với gói vay ưu đãi mua nhà, khách hàng được hưởng ưu đãi giải ngân tới 90% giá trị bất động sản mua, thời gian vay lên tới 25 năm, thời gian ưu đãi lãi suất và ân hạn gốc kéo dài tới 24 tháng. Đặc biệt, với những khách hàng thân thiết, sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng có thể được giảm thêm tối đa 1%/năm.

Mặc dù lãi suất cho vay đã và đang giảm dần, song số liệu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, đến hết tháng 2/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023. Phó thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết, do yếu tố mùa vụ của dịp Tết Nguyên đán cùng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao, đến ngày 29/2/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023. Vì thế, để kích cầu tăng trưởng tín dụng trong các quý tới, NHNN yêu cầu các ngân hàng tiết giảm chi phí để nỗ lực giảm thêm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ khách hàng.

TS. Nguyễn Anh Vũ, Trưởng khoa Tài chính (Trường đại học Ngân hàng TP.HCM) cho rằng, mặt bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm giảm kéo tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây, nên chi phí vốn của ngân hàng khả năng được duy trì ở mức thấp trong một thời gian nữa. “Đây là cơ hội cho ngân hàng giảm lãi suất đầu ra, đẩy mạnh tín dụng ra nền kinh tế, nhất là trong các quý tới”, TS. Vũ nói.

Khách hàng cạn tài sản thế chấp

Cái khó của doanh nghiệp hiện nay là cạn tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến tín dụng chậm. Báo cáo của Hiệp hội Doanh nghiệp TP. HCM (HUBA) gửi UBND TP.HCM mới đây cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn không thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng.

Theo HUBA, trước tình hình khó khăn về vốn, NHNN đã ban hành Thông tư số 02/2023/TT-NHNN cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; đồng thời tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ 2% lãi suất vay, song tình hình vay vốn của doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn. Đáng chú ý, theo khảo sát của HUBA, có tới 41% doanh nghiệp không còn tài sản thế chấp đủ pháp lý để vay vốn. Trong khi đó, việc định giá tài sản đất nông nghiệp rất thấp, tài sản đất thuê hàng năm cũng không thế chấp được, các tài sản khác bị định giá xuống khi lạm phát gia tăng. Vì vậy, HUBA kiến nghị xem xét tăng tỷ lệ thế chấp các tài sản này, thực hiện mở rộng cho vay theo hợp đồng, với các tài sản và quyền tài sản hình thành trong tương lai.

Đồng thời, HUBA kiến nghị chính quyền TP.HCM xem xét đơn giản hóa thủ tục vay vốn kích cầu đầu tư cho doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ, chú trọng hỗ trợ nguồn vốn và chính sách ưu đãi đối với các dự án lớn, hình thành hệ thống các nhà máy chuyên môn hóa, có thể sản xuất được các cụm linh kiện hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng toàn cầu.

Trong khi đó, doanh nghiệp kiến nghị, ngân hàng nên nới điều kiện, tiêu chí cho vay để họ có thể tiếp cận vốn vay. Một doanh nghiệp trong lĩnh vực lữ hành cho biết, họ đang rất cần vốn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, nhưng khó vay vốn ngân hàng, vì báo cáo tài chính không đẹp để đáp ứng điều kiện vay vốn của ngân hàng.

Để dòng vốn tín dụng chảy nhanh hơn, các doanh nghiệp, hiệp hội đề xuất ngân hàng linh động hơn trong việc cho vay, giảm bớt thủ tục, yêu cầu tài sản đảm bảo. Thế nhưng, theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, các tiêu chuẩn để đảm bảo tính an toàn của khoản vay, như yếu tố pháp lý của tài sản đảm bảo, là yêu cầu không thể giản lược.

Đáng chú ý là, tình hình kinh tế khó khăn cả trong và ngoài nước đang gây áp lực không nhỏ đến khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp. Hệ quả là, nợ xấu đang có xu hướng gia tăng toàn ngành ngân hàng. Nợ xấu tăng đang là mối lo, nhất là khi nợ xấu được dự báo sẽ đạt đỉnh trong năm 2024. Do đó, dù đạt lợi nhuận cao, song ngân hàng cũng phải trích dự phòng lớn, tác động tiêu cực lên kết quả kinh doanh trong năm. Vì thế, hầu hết ngân hàng kiến nghị gia hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN để khách hàng có thêm thời gian trả nợ.

 

Nguồn: Báo đầu tư