Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU ảnh hưởng tới xuất khẩu của quốc gia ASEAN

Báo cáo Đánh giá sự ổn định thị trường vốn năm 2023 của SC cho hay, mặc dù chỉ chiếm 8% tổng xuất khẩu của Malaysia trong giai đoạn 2021 – 2023, song nhiều chính sách liên quan đến môi trường, khí hậu, xã hội và quản trị (ESG), đặc biệt là CBAM của EU có khả năng ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp Malaysia.
SC cũng lưu ý rằng, EU ngày càng đưa ra nhiều tiêu chuẩn liên quan đến ESG ở cấp độ quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp Malaysia cần phải tuân thủ, kịp thời nắm bắt thông tin để có định hướng kinh doanh phù hợp.

Trong bối cảnh này, SC đang xây dựng một nghiên cứu đánh giá mức độ rủi ro, tác động của các quy định ESG đối với các công ty đại chúng (PLC) để nhấn mạnh tính cấp thiết của việc chuyển đổi hoạt động kinh doanh theo hướng bền vững.

Để đạt được mục tiêu này, SG đã chủ trì một ủy ban cố vấn về phát triển bền vững, trong đó có nhiệm vụ xác định khả năng sử dụng các quy định của Ủy ban Tiêu chuẩn Bền vững Quốc tế (ISSB) ở Malaysia, cung cấp thông tin và xây dựng các khuôn khổ hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước.

SC khẳng định rằng đây là một phần trong nỗ lực của SC nhằm góp phần giảm sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn ESG quốc tế và địa phương.
Các công ty ở Malaysia tham gia vào các lĩnh vực truyền thống sử dụng nhiều carbon hoặc hoạt động trong những ngành gây phát thải khí carbon cao đang phải đối mặt với nhiều rủi ro khi các nhà đầu tư, khách hàng có sự điều chỉnh chính sách thương mại, đầu tư theo cơ chế CBAM của EU.

Nguồn: bnews.vn

Từ ngày 15-5, giá điện sẽ được điều chỉnh 3 tháng một lần

Ngày 26-3, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký ban hành Quyết định số 05/2024/QĐ-TTg quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân. Từ ngày 15-5-2024, Quyết định này thay thế Quyết định 24 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Về cơ chế điều chỉnh giá bán điện bình quân hằng năm, Quyết định 05 nêu rõ trường hợp giá bán điện bình quân tính toán giảm từ 1% trở lên so với giá bán điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có trách nhiệm giảm giá bán điện bình quân ở mức tương ứng. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, EVN có trách nhiệm lập hồ sơ báo cáo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan để kiểm tra, giám sát.

Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 3% đến dưới 5% so với giá bán điện bình quân hiện hành, EVN quyết định điều chỉnh tăng giá bán điện bình quân ở mức tương ứng. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, EVN lập hồ sơ báo cáo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan để kiểm tra, giám sát.

Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 5% đến dưới 10% so với giá bán điện bình quân hiện hành, EVN được phép điều chỉnh tăng giá bán điện bình quân ở mức tương ứng sau khi báo cáo và được Bộ Công Thương chấp thuận.

Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phương án giá của EVN, Bộ Công Thương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản để EVN triển khai thực hiện. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn EVN có trách nhiệm báo cáo Bộ Công Thương.

Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 10% trở lên so với giá bán điện bình quân hiện hành hoặc ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vĩ mô, trên cơ sở hồ sơ phương án giá điện do EVN trình, Bộ Công Thương chủ trì kiểm tra, rà soát và gửi lấy ý kiến Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan.

Trên cơ sở ý kiến góp ý của Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan, Bộ Công Thương tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến. Trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá trước khi báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

So với quy định cũ, Quyết định 05 đã thay đổi chu kỳ điều chỉnh giá điện bình quân. Theo đó, thời gian điều chỉnh giá bán điện bình quân tối thiểu là 3 tháng kể từ lần điều chỉnh giá điện gần nhất (quy định cũ là 6 tháng).

Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ cũng giao Bộ Công Thương có trách nhiệm hướng dẫn EVN tính toán giá bán điện bình quân theo quy định; thực hiện việc điều chỉnh giá điện; chủ trì kiểm tra, giám sát theo quy định.

Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương thực hiện Quyết định này với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về giá. Các Bộ, cơ quan liên quan có ý kiến tham gia, phối hợp đối với các nội dung liên quan trong phạm vi được phân công quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật. Tổng cục Thống kê có trách nhiệm đánh giá tác động của việc điều chỉnh giá điện đến kinh tế vĩ mô.

Minh Chiến

Nguồn: Báo mới

Cần Thơ: Doanh nghiệp giải thể, bỏ địa điểm kinh doanh, tạm ngưng gấp hơn 3 lần thành lập mới

Theo Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 3 và quý I năm 2024 của Cục Thống kê TP. Cần Thơ, trong quý I/2024, thành phố cấp mới đăng ký kinh doanh cho 351 doanh nghiệp, đạt 19,5% kế hoạch, với tổng vốn đăng ký 2.749,8 tỷ đồng, đạt 21,15% kế hoạch. So cùng kỳ năm 2023, số doanh nghiệp đăng ký giảm 10,23% và số vốn đăng ký mới tăng 38,9%.

Tuy nhiên, tính từ ngày 1/1/2024 đến 29/2/2024, tình hình biến động giải thể, bỏ địa điểm kinh doanh, tạm ngưng với tổng số 1.066 doanh nghiệp, gấp hơn 3 lần so với doanh nghiệp thành lập mới trong cả quý I/2024. Trong đó, số doanh nghiệp giải thể, bỏ địa chỉ kinh doanh… với tổng số 188 doanh nghiệp (9 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể; 80 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể; 99 doanh nghiệp bỏ địa điểm kinh doanh) và 878 doanh nghiệp ngừng hoạt động có thời hạn.

Bên cạnh đó, tình hình thu hút đầu tư cũng không mấy khả quan. Lũy kế quý I/2024, trên địa bàn TP. Cần Thơ chỉ có 1 dự án đầu tư trong nước được UBND thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư, với vốn đầu tư đăng ký 150 tỷ đồng.

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong quý I năm 2024, thành phố chưa cấp dự án đầu tư mới. Chỉ có 1 dự án FDI trong khu công nghiệp được điều chỉnh tăng vốn thêm 18,93 triệu USD.

Lũy kế trên địa bàn thành phố hiện có 81 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 2.274,97 triệu USD (Trong đó, tại các khu công nghiệp có 29 dự án, với tổng vốn đăng ký 611,98 triệu USD; ngoài khu công nghiệp có 52 dự án, tổng vốn đăng ký 1.662,99 triệu USD).

Về xu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh, theo Cục Thống kê TP. Cần Thơ, qua kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024 so với quý IV/2023 cho thấy, đa số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn. Dự kiến quý II/2024 so với quý I/2024, có 40% doanh nghiệp đánh giá xu hướng tốt hơn và chỉ 20% doanh nghiệp đánh giá tình hình vẫn còn khó khăn.

Về khối lượng sản xuất, có 24% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2024 tăng so với quý trước; 38% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 40% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 17% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng mới, có 22,11% số doanh nghiệp đánh giá doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng mới quý I/2024 tăng so với quý trước; 32,63% số doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng mới giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2043, có 38,54% số doanh nghiệp dự báo đơn đặt hàng mới sẽ tăng; 13,54% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2024 so với quý trước, có 20,83% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; 22,92% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 43,75% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 12,50% số doanh nghiệp dự kiến giảm.

Nguồn: Báo Đầu tư

Lãi vay giảm, doanh nghiệp cạn tài sản thế chấp

Lãi vay giảm khi tín dụng khó tăng

Mặt bằng lãi suất cho vay giảm dần khi lãi suất huy động xuống sâu, song tăng trưởng dư nợ toàn ngành vẫn âm trong 2 tháng đầu năm nay.

Nhằm thu hút khách hàng, nhiều ngân hàng tiếp tục giảm lãi cho vay. Sacombank triển khai nguồn vốn 10.000 tỷ đồng với lãi suất siêu ưu đãi chỉ 3%/năm, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng cá nhân và doanh nghiệp đến hết quý I/2024.

Trong khi đó, SHB đồng loạt giảm lãi suất các gói vay ưu đãi xuống còn từ 5,79%/năm. Với cá nhân, lãi suất vay được điều chỉnh giảm xuống 6,39%/năm đối với khoản vay ngắn hạn và 5,79%/năm đối với khoản vay trung – dài hạn. Đồng thời, với gói vay ưu đãi mua nhà, khách hàng được hưởng ưu đãi giải ngân tới 90% giá trị bất động sản mua, thời gian vay lên tới 25 năm, thời gian ưu đãi lãi suất và ân hạn gốc kéo dài tới 24 tháng. Đặc biệt, với những khách hàng thân thiết, sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng có thể được giảm thêm tối đa 1%/năm.

Mặc dù lãi suất cho vay đã và đang giảm dần, song số liệu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, đến hết tháng 2/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023. Phó thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết, do yếu tố mùa vụ của dịp Tết Nguyên đán cùng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao, đến ngày 29/2/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023. Vì thế, để kích cầu tăng trưởng tín dụng trong các quý tới, NHNN yêu cầu các ngân hàng tiết giảm chi phí để nỗ lực giảm thêm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ khách hàng.

TS. Nguyễn Anh Vũ, Trưởng khoa Tài chính (Trường đại học Ngân hàng TP.HCM) cho rằng, mặt bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm giảm kéo tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây, nên chi phí vốn của ngân hàng khả năng được duy trì ở mức thấp trong một thời gian nữa. “Đây là cơ hội cho ngân hàng giảm lãi suất đầu ra, đẩy mạnh tín dụng ra nền kinh tế, nhất là trong các quý tới”, TS. Vũ nói.

Khách hàng cạn tài sản thế chấp

Cái khó của doanh nghiệp hiện nay là cạn tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến tín dụng chậm. Báo cáo của Hiệp hội Doanh nghiệp TP. HCM (HUBA) gửi UBND TP.HCM mới đây cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn không thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng.

Theo HUBA, trước tình hình khó khăn về vốn, NHNN đã ban hành Thông tư số 02/2023/TT-NHNN cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; đồng thời tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ 2% lãi suất vay, song tình hình vay vốn của doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn. Đáng chú ý, theo khảo sát của HUBA, có tới 41% doanh nghiệp không còn tài sản thế chấp đủ pháp lý để vay vốn. Trong khi đó, việc định giá tài sản đất nông nghiệp rất thấp, tài sản đất thuê hàng năm cũng không thế chấp được, các tài sản khác bị định giá xuống khi lạm phát gia tăng. Vì vậy, HUBA kiến nghị xem xét tăng tỷ lệ thế chấp các tài sản này, thực hiện mở rộng cho vay theo hợp đồng, với các tài sản và quyền tài sản hình thành trong tương lai.

Đồng thời, HUBA kiến nghị chính quyền TP.HCM xem xét đơn giản hóa thủ tục vay vốn kích cầu đầu tư cho doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ, chú trọng hỗ trợ nguồn vốn và chính sách ưu đãi đối với các dự án lớn, hình thành hệ thống các nhà máy chuyên môn hóa, có thể sản xuất được các cụm linh kiện hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng toàn cầu.

Trong khi đó, doanh nghiệp kiến nghị, ngân hàng nên nới điều kiện, tiêu chí cho vay để họ có thể tiếp cận vốn vay. Một doanh nghiệp trong lĩnh vực lữ hành cho biết, họ đang rất cần vốn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, nhưng khó vay vốn ngân hàng, vì báo cáo tài chính không đẹp để đáp ứng điều kiện vay vốn của ngân hàng.

Để dòng vốn tín dụng chảy nhanh hơn, các doanh nghiệp, hiệp hội đề xuất ngân hàng linh động hơn trong việc cho vay, giảm bớt thủ tục, yêu cầu tài sản đảm bảo. Thế nhưng, theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, các tiêu chuẩn để đảm bảo tính an toàn của khoản vay, như yếu tố pháp lý của tài sản đảm bảo, là yêu cầu không thể giản lược.

Đáng chú ý là, tình hình kinh tế khó khăn cả trong và ngoài nước đang gây áp lực không nhỏ đến khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp. Hệ quả là, nợ xấu đang có xu hướng gia tăng toàn ngành ngân hàng. Nợ xấu tăng đang là mối lo, nhất là khi nợ xấu được dự báo sẽ đạt đỉnh trong năm 2024. Do đó, dù đạt lợi nhuận cao, song ngân hàng cũng phải trích dự phòng lớn, tác động tiêu cực lên kết quả kinh doanh trong năm. Vì thế, hầu hết ngân hàng kiến nghị gia hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN để khách hàng có thêm thời gian trả nợ.

 

Nguồn: Báo đầu tư

Doanh nghiệp sản xuất sợi “khó chồng khó”

Tăng trưởng 2 con số nhưng không làm mờ đi khó khăn

Theo số từ Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm 2024, cả nước xuất khẩu 282.059 tấn xơ sợi dệt các loại, tương đương hơn 666,75 triệu USD, tăng 26,7% về lượng và tăng 18,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ là thị trường nhập khẩu sợi nhiều nhất của Việt Nam, ngoài ra còn có Indonesia, Bangladesh, Brazil, Campuchia…

Dù xuất khẩu sợi tăng trưởng 2 con số tuy nhiên vẫn không làm doanh nghiệp sản xuất bớt lo lắng. Ông Phạm Văn Tuyên – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Dệt 8-3 từng nhận định, thị trường sợi có thể tiếp tục khó khăn đến hết năm do tác động tiêu cực từ các cuộc xung đột, lạm phát. Giá nguyên liệu bông neo ở mức cao dẫn đến sợi bán ra bị lỗ.

Nhận định tương tự, theo đại diện Công ty CP Dệt May Huế, thị trường sợi năm 2024 vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục rõ ràng, phụ thuộc rất lớn vào tình hình giá nguyên liệu đầu vào và đang chịu tác động mạnh từ các nhà đầu cơ.

Mặt khác, xung đột tại khu vực Biển Đỏ khiến giá tàu các tuyến đi châu Âu vẫn tăng, thời gian vận chuyển kéo dài hơn 3-5 tuần so với trước đây làm tăng chi phí, gây khó khăn trong việc lấy booking tàu và ảnh hưởng đến thời gian vận chuyển nguyên liệu sản xuất sợi.

Ông Viên Minh Đạo – Giám đốc Chi nhánh Vinatex Nhà máy Sợi Vinatex Nam Định thông tin thêm, xu hướng tiêu dùng đang thay đổi với sự quan tâm ngày càng cao đối với các sản phẩm dệt may bền vững và công nghệ cao, như sợi tái chế, sợi sinh học, sợi thông minh, sợi kháng khuẩn, kháng cháy… So với những năm trước, nhu cầu tiêu dùng các loại sợi này đã tăng khoảng từ 15% đến 20%. Điều này đặt doanh nghiệp trong nước trước yêu cầu phải chuyển đổi sản xuất, đồng nghĩa phải bỏ vốn đầu tư.

Doanh nghiệp mong được trợ sức

Những khó khăn của ngành sợi ngoài yếu tố thị trường, lạm phát, xung đột, logictics, theo ông Phạm Văn Tuyên lãi suất ngân hàng vẫn giữ ở mức cao dẫn đến doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn cho sản xuất cũng là thách thức lớn.

Từng lên tiếng về vấn đề này, tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024 tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, diễn ra vừa qua, ông Lê Tiến Trường – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) nêu, hiện nay, tất cả các ngân hàng đều cắt giảm hạn mức cho vay với công ty sợi, hoặc yêu cầu có tài sản đảm bảo 100% với khoản vay ngắn hạn năm 2024.

Năm 2023 tính chung giá trị tài sản đảm bảo cho các khoản vay chỉ khoảng 20%, năm nay yêu cầu phải 100% hoặc áp dụng chính sách trả được 10 thì chỉ được vay lại 8 hoặc 9”, Chủ tịch Vinatex cho hay.

Ông cũng đồng thời nhấn mạnh, mỗi năm các doanh nghiệp sợi đang trả ngân hàng khoảng 300 triệu USD. Bên cạnh đó, ngành sợi cũng đang duy trì 150.000 lao động, tiền lương trả cho công nhân khoảng 1 tỷ USD, đặc biệt ngành sợi dùng điện nhiều, 1 năm đang trả khoảng 500 triệu USD tiền điện. “Ngành sợi hiện đang rất lỗ, nếu không có sự hỗ trợ của ngân hàng, chỉ đạo của Chính phủ và các Bộ, ngành thì chúng ta có thể mất đi ngành sợi”, ông Lê Tiến Trường đặc biệt nhấn mạnh

Khó khăn của ngành sợi hiện nay là tình trạng chung của các doanh nghiệp rất cần được tiếp tục hỗ trợ để vượt qua. Do đó, theo Chủ tịch Vinatex, với doanh nghiệp ngành sợi, ngân hàng không giảm hạn mức tín dụng và cũng không yêu cầu tài sản bảo đảm cố định để duy trì được sản xuất.

Mặt khác, hiện nay lãi suất giảm nhưng tiếp cận giải ngân rất khó. Theo đó, ông Lê Tiến Trường cho rằng, câu chuyện về có chính sách hỗ trợ như thời kỳ Covid-19 đối với giai đoạn phục hồi này cũng hết sức quan trọng cho các ngành xuất khẩu. “Chính sách liên quan đến tỷ giá, 2 năm vừa qua mức giảm giá của Việt Nam đồng chỉ 5% rất khó khăn cho các ngành xuất khẩu của Việt Nam so với các quốc gia cạnh tranh khác. Chúng tôi cũng không dám nói nên giảm đi bao nhiêu, nhưng có lẽ 5% thì ít và khó cho các ngành xuất khẩu phục hồi“, ông Lê Tiến Trường nói.

 

Hải Linh
Báo Công Thương

Doanh nghiệp kêu trời vì chậm được hoàn thuế VAT

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Trương Văn Bắc, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư cao su Việt Nam cho biết, doanh nghiệp của ông đã bị chậm hoàn thuế khoảng 2 năm nay, với số tiền lên tới gần 70 tỷ đồng.

“Số tiền chậm hoàn thuế còn lớn hơn số vốn của Công ty”, ông Bắc nói.

Vì số tiền bị chậm hoàn thuế này, ông Trương Văn Bắc cho hay, công ty ông đã tạm ngừng hoạt động vì không có vốn quay vòng. Trong khi đó, nguồn vốn vay ngân hàng cũng hết sức hạn chế bởi ngân hàng căn cứ vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp để cho vay.

Dù khó lòng tồn tại, song doanh nghiệp này cũng không thể giải thể, mà vẫn phải duy trì hoạt động để chờ số tiền hoàn thuế chưa biết khi nào mới được trả này.

“Nếu giải thể thì khó để làm giấy tờ, thủ tục nhận lại hồ sơ hoàn thuế. Nhưng việc duy trì hoạt động như thế này cũng tốn khá nhiều chi phí nhân sự, đóng thuế doanh nghiệp… Những chi phí này tôi phải tự bỏ tiền túi ra trả. Điều này khiến doanh nghiệp và người kinh doanh rơi vào tình trạng sống dở chết dở”, ông Bắc ngao ngán.

Quan trọng hơn, với việc không còn khả năng duy trì kinh doanh, Công ty TNHH Đầu tư cao su Việt Nam rơi vào tình trạng đánh mất khách hàng, đánh mất các thị trường sau hàng chục năm gây dựng, kinh doanh.

Trước đó, vào tháng 5/2023, Công ty nộp hồ sơ đề nghị hoàn thuế của 2 kỳ hoàn thuế tháng 10/2021 (từ tháng 7 – 10/2021 và tháng 11/2021). Dù quy định chậm nhất là 40 ngày phải giải quyết, nhưng đến nay, hồ sơ của Công ty vẫn “bặt vô âm tín”. Chi cục Thuế quận Phú Nhuận nói đã chuyển hồ sơ lên Cục Thuế TP.HCM. Liên lạc với Cục Thuế TP.HCM thì được trả lời là không trực tiếp quản lý hồ sơ của Công ty, mọi thắc mắc liên lạc với Chi cục Thuế quận Phú Nhuận để được giải đáp.

Ông Bắc cho biết thêm, trước đó, doanh nghiệp không thể nộp được hồ sơ đề nghị hoàn thuế vì các cơ quan liên quan không tiếp nhận, chỉ khi có phản ánh từ báo chí thì mới được mở cửa nhận hồ sơ, song tình hình cũng không mấy khả quan.

Tình trạng tương tự cũng xảy ra với nhiều doanh nghiệp ở các ngành hàng như gỗ, sắn…

Nổi bật có thể kể đến hồ sơ hoàn thuế của Công ty cổ phần Fococev Việt Nam, với số tiền lên tới 355 tỷ đồng. Cụ thể, Công ty Fococev Việt Nam kiến nghị, có 29 hồ sơ cho các kỳ hoàn thuế từ tháng 6/2020 đến tháng 2/2023, với số tiền đề nghị hoàn là khoảng 355 tỷ đồng; có 2 hồ sơ cho kỳ hoàn thuế tháng 5/2023 và tháng 9/2023, với số tiền đề nghị hoàn là khoảng 11 tỷ đồng.

Đến nay, Cục Thuế TP.HCM đã kiểm tra xong, đủ điều kiện hoàn thuế, nhưng vẫn chưa giải quyết hoàn thuế cho Công ty Fococev Việt Nam.

Lý giải tình trạng chậm hoàn thuế hiện nay, nhiều doanh nghiệp cho biết, mình hoàn toàn bị “vạ lây” từ các doanh nghiệp đã đóng cửa, hoặc nghiêm trọng hơn là đã bỏ trốn.

Bà Trần Lệ Thu, đại diện Công ty TNHH TM Hòa Thuận chia sẻ, khi làm thủ tục hoàn thuế VAT, doanh nghiệp có thể bị yêu cầu xác minh những hóa đơn từ nhiều năm trước, trong đó có những hóa đơn rất nhỏ, chi tiêu cho những hoạt động bên lề của doanh nghiệp.

Nếu khi xác minh, doanh nghiệp cung cấp hóa đơn không còn tồn tại, thì doanh nghiệp từng nhận hóa đơn của các doanh nghiệp này sẽ bị xử phạt vì “khai sai”.

“Điều này là rất vô lý, bởi chúng tôi không thể nắm được hoạt động của doanh nghiệp khác, không thể “tiên tri” nếu họ ngừng hoạt động hay bỏ trốn sau khi cung cấp hóa đơn. Trách nhiệm điều tra và nắm bắt tình trạng hoạt động hay không hoạt động là của cơ quan thuế chứ không ở phía doanh nghiệp”, bà Thu nói.

Với trường hợp này, dù doanh nghiệp không có lỗi, song dù có kê khai hay không kê khai hóa đơn đó thì vẫn phải chịu thiệt.

“Có những hóa đơn từ các doanh nghiệp không còn hoạt động mà chúng tôi tìm hiểu được thì đã loại ra khỏi hồ sơ hoàn thuế, chấp nhận mất 10% thuế và phát sinh thêm thuế thu nhập doanh nghiệp để xử lý hồ sơ nhanh hơn”, đại diện Công ty TNHH Kỹ thuật số Việt chia sẻ khi làm hồ sơ hoàn thuế với số tiền khoảng 900 triệu đồng.

Ông Trương Văn Bắc cung cấp thêm thông tin là, hiện chỉ các doanh nghiệp tập trung ở các ngành như cao su, sắn, gỗ… tại TP.HCM mới xảy ra tình trạng chậm hoàn thuế, trong khi doanh nghiệp ở các địa phương khác không gặp tình trạng này.

 

Nguồn: Báo đầu tư

Bản tin tổng hợp PPIA từ 17/3- 23/3/2024

Giá OCC của Mỹ, Châu Âu nhập khẩu giảm 5 -15 USD/tấn sau khi phục hồi ở Đông Nam Á, Đài Loan

Việc các công ty gốc Trung Quốc ở các nước Đông Nam Á tăng cường mua OCC sau Tết khiến giá OCC của Mỹ tăng vọt trong hai tuần từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3, với giá DS OCC 12 tăng 10 USD/tấn và đạt 230 USD -235/tấn hai tuần trước, đạt mức cao gần đây.

Nhu cầu trì trệ về vật liệu đóng gói trên thị trường giấy bìa Trung Quốc do dư thừa công suất và suy thoái kinh tế khiến giá thành phẩm và OCC thu gom trong nước giảm, làm giảm nhu cầu mua DS OCC đắt tiền của Mỹ và chế biến thành bột giấy tái chế tại cơ sở của Trung Quốc ở Đông Nam Á.

Hầu hết các nhà máy bột giấy tái chế ở Đông Nam Á đã ngừng mua DS OCC của Mỹ khi giá tăng lên 228-232 USD/tấn và chỉ một trong số họ trả mức 235 USD/tấn để có được khối lượng vào đầu tháng 3.

Các nhà máy bột giấy tái chế sau đó đã giảm sản lượng để đối phó với giá OCC cao của Hoa Kỳ.

Giá OCC của Mỹ, Châu Âu giảm: Giá DS OCC của Mỹ là 220-225 USD/tấn tại Đông Nam và Đài Loan trong tuần này, giảm 10 USD/tấn so với hai tuần trước.

Giá US OCC 11 sụt giảm lớn hơn, giảm 10-15 USD/tấn xuống còn 210-220 USD/tấn.

Tương tự, giá OCC 95/5 châu Âu đã giảm 5 USD/tấn xuống còn 160-165 USD/tấn trong khu vực.

Tuy nhiên, giá OCC của Nhật Bản không thay đổi, đứng ở mức 175-180 USD/tấn do nguồn cung hạn chế.

Giá bìa tái chế, giấy cao cấp tăng trong Quý 1 ở Đông Nam Á

Giá giấy thu hồi (RCP) và bột từ gỗ trên thị trường cao buộc các nhà cung cấp giấy bìa tái chế và giấy cao cấp tăng giá ở Đông Nam Á trong quý đầu tiên của năm 2024, nhưng đà tăng đã chững lại trong tháng này, do nhu cầu giấy bìa tái chế từ Trung Quốc thấp trong khi nguồn cung giấy và bìa làm từ sợi nguyên chất (P&B) rất lớn.

Giá bìa tái chế tăng: Giá các loại bìa tái chế làm bao bì chính nhập khẩu từ Đông Nam Á vào thị trường Trung Quốc đã tăng 10-20 USD/tấn trong quý cuối cùng của năm 2023.

Trong khi thị trường bao bì tái chế ở Đông Nam Á nhìn chung đang gặp khó khăn do dư thừa công suất, sự cải thiện nhẹ gần đây về chỉ số sản xuất của một số nền kinh tế chủ chốt trong khu vực như Indonesia, Việt Nam và Malaysia, cùng với ngành du lịch hồi sinh đã hỗ trợ nhu cầu địa phương về vật liệu đóng gói. .

Theo dữ liệu từ Hải quan Trung Quốc, nước này đã nhập khẩu khoảng 521.000 tấn giấy làm lớp sóng (medium) trong hai tháng đầu năm 2024, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng lượng giấy lớp mặt nhập khẩu trong cùng kỳ là gần 697.000 tấn, tăng 55,8%. Hơn 50% giấy làm lớp sóng nhập khẩu và hơn 70% lượng giấy giấy lớp mặt nhập khẩu là từ các nước Đông Nam Á.

Khối lượng đơn đặt hàng mới về giấy làm thùng sóng tái chế từ Trung Quốc đã giảm mạnh trong tháng 2 do hoạt động kinh doanh ở đó chậm lại trong kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài. Người mua Trung Quốc tiếp tục tỏ ra ít quan tâm đến việc mua giấy làm thùng sóng tái chế nhập khẩu trong tháng 3 do giá cả và nhu cầu trên thị trường giấy bìa nội địa Trung Quốc giảm.

Một số nhà máy ở Đông Nam Á đã giảm giá chào bán testliner và giấy làm lớp sóng (medium) cho khách hàng Trung Quốc ở mức 10-15 USD/tấn trong tháng 3 nhưng khó có thể thu hút thêm đơn đặt hàng.

“Chúng tôi đã hạ giá niêm yết cho testliner từ 380-390 USD [mỗi tấn] CIF Trung Quốc vào tháng trước xuống còn 370 USD [mỗi tấn trong tháng 3] nhưng hầu hết khách hàng Trung Quốc gặp chúng tôi lại chào bán với giá 355 USD [mỗi tấn],” một nhà sản xuất giấy bìa tái chế ở Việt Nam cho biết.

Bất chấp sự sụt giảm giá đối với hàng xuất khẩu sang Trung Quốc, giá thương mại nội vùng ở Đông Nam Á hầu như không thay đổi trong tháng 3 so với mức tháng 2. Tuy nhiên, tình trạng trì trệ đang diễn ra ở Trung Quốc đã cản trở các nhà máy sản xuất giấy ở Đông Nam Á theo đuổi việc tăng giá thêm trong bối cảnh chi phí RCP cao, điều này có thể sớm buộc một số nhà máy phải cắt giảm sản xuất.

Giá giấy làm lớp sóng tái chế CIF Đông Nam Á đã tăng từ 340-400 USD/tấn vào tháng 12 năm 2023 lên 340-410 USD/tấn vào tháng 1. Mức giá này tiếp tục tăng lên tới 350-420 USD/tấn trong tháng 2 và không thay đổi trong tháng 3.

Giá testliner nhập khẩu đã tăng từ 360-410 USD/tấn trong tháng 12 lên 360-420 USD/tấn trong tháng 1. Giá tăng thêm 10 USD/tấn lên 370-430 USD/tấn trong tháng 2 và gần như ổn định kể từ đó.

Giá giấy mặt kraft nhập khẩu dao động trong khoảng 450-560 USD/tấn vào tháng 12 năm ngoái, hiện có giá 460-560 USD/tấn trong tháng 3.

Đối với bìa cứng tái chế, giá duplex tráng phấn lưng xám nhập khẩu ở Đông Nam Á đã tăng 20-30 USD/tấn trong hai tháng đầu năm nay, tăng từ 470-540 USD/tấn vào tháng 12 năm 2023 lên 490-570 USD/tấn vào năm 2023. Tháng 2 năm 2024, khi cả nhà sản xuất trong nước và Hàn Quốc đều yêu cầu tăng giá để cân bằng chi phí đầu vào ngày càng tăng, đặc biệt là chi phí RCP. Những nỗ lực tăng giá đã gặp trở ngại trong tháng 3 và giảm xuống còn 470-560 USD/tấn do tác động dây chuyền từ sự tràn vào của bìa tráng phấn màu ngà từ sợi nguyên chất giá rẻ.

Các công ty giấy hàng đầu ở Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng công suất sản xuất bìa cứng từ bột nguyên chất trong những năm gần đây và cần tăng cường xuất khẩu sản phẩm của họ, chủ yếu là bìa tráng phấn màu ngà sang thị trường nước ngoài để giảm bớt vấn đề dư cung trong nước. Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, từ lâu đã là điểm đến quan trọng cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc.

Trong khi khối lượng bìa tráng phấn màu ngà từ Trung Quốc vẫn ở mức cao, nguồn cung ở Đông Nam Á đã tăng vọt sau khi APRIL khởi động một máy xeo bìa cứng từ bột nguyên chất mới có công suất 1,2 triệu tấn/năm tại khu liên hợp giấy và bột giấy ở Pangkalan Kerinci, tỉnh Riau, Indonesia giữa tháng 1, dẫn đến cạnh tranh về giá gay gắt hơn.

Các nhà cung cấp cho biết bìa tráng phấn màu ngà cấp thấp nhập khẩu từ Indonesia và Trung Quốc được chào ở mức 540-560 USD/tấn tại Việt Nam trong tháng 3, điều này gây áp lực giảm giá đối với duplex tráng phấn lưng xám từ sợi tái chế vì hai loại này có thể thay thế cho nhau.

Giá giấy cao cấp tăng nhẹ: Sau đợt tăng giá trong quý cuối cùng của năm 2023, các nhà sản xuất giấy cao cấp hàng đầu ở Đông Nam Á đã công bố nhiều mức tăng giá hơn trong quý đầu tiên năm nay. Mức tăng đề xuất đối với giấy cao cấp tráng phấn (CFP) được đặt ở mức 5-8% cho các đơn đặt hàng từ tháng 2 trở đi trong khi mức tăng đối với giấy cao cấp không tráng phấn (UFP) là 30 USD/tấn cho các đơn đặt hàng tháng 2, tiếp theo là mức tăng khác là 30 USD/tấn cho tháng 3.

Cùng thời gian đó, các nhà sản xuất giấy cao cấp hàng đầu ở Trung Quốc cũng đưa ra kế hoạch tăng giá tương tự cho thị trường nội địa.

Tuy nhiên, thị trường giấy cao cấp của Trung Quốc không thay đổi trong tháng 2 do hoạt động kinh doanh chậm lại trong dịp nghỉ Tết Nguyên đán, sau khi giá CFP giảm hơn 200 RMB/tấn (27,55 USD/tấn) và giá UFP giảm 100-200 RMB/tấn vào tháng Giêng. Sự tăng giá chỉ trở nên rõ ràng vào tháng 3 khi thị trường Trung Quốc bước vào mùa cao điểm truyền thống đối với giấy in và viết, và mức tăng khoảng 100-150 RMB/tấn tính đến thứ Tư ngày 20 tháng 3.

Các nguồn tin cho biết những động thái chậm chạp ở thị trường nội địa Trung Quốc đã khiến xuất khẩu trở thành một hoạt động kinh doanh tương đối sinh lợi hơn cho các nhà sản xuất giấy cao cấp của Trung Quốc, khiến họ phải tìm kiếm thêm đơn đặt hàng ở nước ngoài thay vì nhấn mạnh vào việc tăng giá.

Kết quả là, giá giấy cao cấp nhập khẩu ở Đông Nam Á chỉ tăng nhẹ ở mức thấp nhất trong quý đầu tiên của năm nay. Giá nhập khẩu CFP tăng từ 700-830 USD/tấn vào tháng 12 năm 2023 lên 720-830 USD/tấn trong tháng 3, trong khi giá nhập khẩu UFP tăng từ 770-860 USD/tấn trong tháng 12 lên 790-860 USD/tấn trong tháng 3.

Các nhà sản xuất UFP Đông Nam Á đã tiếp tục xuất khẩu sang châu Âu trong quý đầu tiên của năm nay bất chấp giá cước vận tải đường biển tăng vọt do cuộc khủng hoảng vận tải ở Biển Đỏ. Một nhà cung cấp UFP hàng đầu ở Indonesia cho biết cho đến nay, chi phí vận chuyển của họ sang châu Âu tăng vọt đã được kiềm chế ở mức có thể quản lý được.

Hokuetsu của Nhật Bản bán 90% cổ phần Ánh Sao Giang Môn cho chi nhánh Taison Group

Công ty giấy Nhật Bản Hokuetsu Corporation đã bán 90% cổ phần của công ty con gián tiếp thuộc sở hữu hoàn toàn của mình, Giấy Ánh Sao Giang Môn, cho Taison (Hong Kong) International Holdings, một chi nhánh của Tập đoàn Taison của Trung Quốc.

Thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần được ký vào thứ Sáu ngày 15 tháng 3 và giá trị của nó không được tiết lộ. Giao dịch sẽ được hoàn tất trước ngày 31 tháng 3.

Sau giao dịch, Taison (Hồng Kông) sẽ nắm giữ 934.500.000 cổ phiếu, tương đương 90% cổ phần của Ánh Sao Giang Môn, trong khi Hokuetsu sẽ giữ 10% còn lại.

Ánh Sao Giang Môn vận hành máy xeo (BM) bìa cứng tái chế công suất 300.000 tấn/năm tại nhà máy duy nhất của mình ở Tân Hội, thành phố Giang Môn, tỉnh Quảng Đông phía nam Trung Quốc.

BM, được đưa vào hoạt động vào năm 2014, có chiều rộng lưới 4,9 mét và tốc độ thiết kế 650 mét/phút. Sản phẩm chính của nó là duplex tráng phấn lưng xám với định lượng 230-500 g/m2.

Tập đoàn Hokuetsu cho biết trong một tuyên bố vào ngày 15 tháng 3 rằng, như một phần trong kế hoạch chuyển đổi danh mục đầu tư kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng liên tục, họ đã quyết định thoái vốn phần lớn cổ phần tại Ánh Sao Giang Môn vì công ty con gián tiếp hoạt động kém hiệu quả do các hoạt động kinh tế ở nước này phục hồi chậm kể từ đại dịch Covid-19.

Jani Sales của Ấn Độ mở rộng năng lực sản xuất giấy tissue

Jani Sales của Ấn Độ đang mở rộng công suất tổng thể của nhà máy Sarigam tại Valsad ở bang Gujarat lên 57.000 tấn/năm bằng cách bổ sung PM 2 sản xuất 21.000 tấn/năm giấy tissue từ bột nguyên trong quý 3 năm 2024. Sản phẩm của PM 2 gồm khăn lau mặt, khăn giấy, giấy vệ sinh và khăn lau bếp. Các sản phẩm này có định lượng trong khoảng 11,5g/m2 đến 42 g/m2 và dành cho cả xuất khẩu và bán trong nước. PM 2 sẽ do Công ty chế tạo máy xeo giấy tissue Baosua (Quảng Đông, Trung Quốc) cung cấp.

Cường Vệ Sơn Tây khởi động máy sản xuất bìa làm lõi 80.000 tấn/năm tại Trung Quốc

Công ty giấy Cường Vệ Sơn Tây của Trung Quốc vừa khởi động máy xeo giấy làm lõi mới có công suất 80.000 tấn/năm tại nhà máy ở thành phố Tấn Trung, tỉnh Sơn Tây.

PM 9 bắt đầu được đưa vào sản xuất vào ngày 16 tháng 3. Công ty chế tạo máy xeo Trung Quốc cung cấp máy xeo này. Máy có chiều rộng cắt 3,2 mét và tốc độ thiết kế 150 mét/phút.

Nhà máy Tấn Trungcó năm máy xeo bìa tái chế khác với tổng công suất khoảng 1,15 triệu tấn/năm.

Suzano tăng giá BEK cho Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ, có hiệu lực từ tháng 4

Suzano của Brazil, nhà sản xuất bột giấy từ gỗ bạch đàn tẩy trắng (BEK) lớn nhất thế giới, đã thông báo cho thị trường về việc tăng giá BEK 30 USD/tấn cho khách hàng ở châu Á, tăng 80 USD/tấn cho khách hàng ở châu Âu và tăng 100 USD/tấn cho khách hàng ở Bắc Mỹ. Việc điều chỉnh giá sẽ có hiệu lực từ tháng 4.

Giá NBSK CIF Trung Quốc

Ngày 22 tháng 3 năm 2024, Giá BSK tương lai và giá bán lại ở Trung Quốc tăng vọt do lo ngại sâu sắc hơn về sự gián đoạn nguồn cung do các cuộc đình công ngày càng tồi tệ trong ngành vận tải ở Phần Lan đã đẩy giá nhập khẩu BSK vào thị trường Trung Quốc tăng cao.

Các nhà cung cấp toàn cầu đến tham dự Tuần lễ bột giấy Thượng Hải ở Trung Quốc đã cảm nhận được bầu không khí sôi động tại hội nghị và đang không ngừng tìm cách tăng giá nhập khẩu NBSK.

Các nhà đầu tư bột giấy tương lai đã chớp lấy cơ hội kinh doanh chênh lệch giá có sẵn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải và đặc biệt là NBSK của Canada.

Theo các nguồn tin, NBSK của Canada đã đạt mức giá 760-780 USD/tấn, tăng 20 USD/tấn.

NBSK Bắc Âu đã chứng kiến mức tăng vọt từ 10-40 USD/tấn lên 740-760 USD/tấn.

Giá trung bình của NBSK đã tăng 22 USD/tấn lên 760 USD/tấn.

BỘT NHẬP KHẨU VÀO TRUNG QUỐC

Thực giá, USD/tấn CIF tại các cảng chính.                                                   

Giá hiện hành So với tuần trước
22/03/2024 15/03/2024 08/03/2024 (%)
HÀNG TUẦN
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng (BSK)
  NBSK – Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương Bắc 760 738 730 2,98%
HAI TUẦN/LẦN
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng
  Gỗ thông Radiata (Chile) 727,5 727,5 727,5 0,00%
  BSK Nga* 665 665 665 0,00%
Bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK)
  Gỗ bạch đàn 655 655 655 0,00%
  BHK Nga* 620 620 620 0,00%
Bột kraft gỗ mềm không tẩy (USK)
  Chile và Bắc Mỹ 645 645 645 0,00%
  Nga 590 590 605 0,00%
Bột hoá nhiệt cơ tẩy trắng (BCTMP)
  Gỗ cứng (độ trắng 80%) 505 505 505 0,00%
  Gỗ mềm (độ trắng 75%) 490 490 515 0,00%
HÀNG THÁNG
Bột làm bỉm (Kraft phương bắc Mỹ) 900 900 900 0,00%
GHI CHÚ: *  BSK Nga và BHK Nga là giá CIF tới các cảng chính của Trung Quốc.

THÙNG SÓNG CŨ (OCC) NHẬP KHẨU VÀO ĐÔNG NAM Á

Giá USD/tấn CIF tại các cảng chính Đông Nam Á (trừ Indonesia) và Đài Loan

22/03/2024 08/03/2024 23/02/2024 So với 2 tuần trước
OCC (11) từ Mỹ 215 227,5 217,5 -5,49%
OCC (90/10) từ Châu Âu 157,5 162,5 147,5 -3,08%
OCC (95/5) từ Châu Âu 162,5 167,5 152,5 -2,99%
OCC Nhật Bản 177,5 177,5 172,5 0,00%

Nguồn Risi

Biên dịch và tổng hợp VPPA

Châu Á cần chuyển đổi xanh để tăng lợi thế cạnh tranh

Khi thế giới đang dịch chuyển sang kinh tế xanh, các hoạt động phát triển bền vững ngày càng được chú ý. Một số quốc gia phát triển đã nhanh chóng chuyển hướng và kết hợp những giá trị quan trọng vào khuôn khổ kinh tế và xã hội của họ.

Nhiều quốc gia châu Á có các quy định về phát thải carbon tương đối nhẹ nhàng so với các tiêu chuẩn khắt khe ở các quốc gia phương Tây, khiến châu Á trở nên hấp dẫn hơn đối với các ngành sản xuất đang tìm kiếm chi phí vận hành thấp hơn, bao gồm cả những ngành liên quan đến việc tuân thủ các quy định về môi trường.

Trong khi đó, thế giới phát triển đang ưu tiên các hiệp định khí hậu quốc tế và các chính sách môi trường nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu, để ngăn chặn hoạt động sản xuất sử dụng nhiều carbon.

Các nước châu Á không thể tuân thủ các quy định đó có thể gặp khó khăn khi tham gia thương mại quốc tế. Về lâu dài, điều này có thể cản trở tăng trưởng GDP và quỹ đạo kinh tế của họ.

Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam và Bangladesh đã tăng cường đáng kể hoạt động sản xuất xanh trong những năm qua, đặc biệt  trong các lĩnh vực như dệt may, điện tử, ô tô và các ngành công nghiệp nặng như thép và xi măng- những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động và năng lượng.

Bangladesh là ví dụ điển hình về một quốc gia châu Á phải giải quyết những khoảng trống về tính bền vững để duy trì vị thế là đối tác thương mại hấp dẫn, đặc biệt là với EU. Năm ngoái, khối lượng nhập khẩu hàng may mặc của EU từ Bangladesh đã vượt quá khối lượng nhập khẩu từ Trung Quốc. Bangladesh lần đầu tiên trở thành nước xuất khẩu hàng dệt kim hàng đầu sang EU.

Tuy nhiên, hàng dệt may xuất khẩu của Bangladesh có thể chịu áp lực do CBAM, bao gồm thuế đánh vào hàng nhập khẩu tạo ra khí nhà kính trong quá trình sản xuất. Biện pháp này sẽ làm tăng chi phí bán hàng dệt may tại thị trường EU đối với các nhà xuất khẩu như Bangladesh.

Bắt đầu từ tháng 10 năm ngoái, Liên minh châu Âu áp dụng giai đoạn chuyển tiếp cho một số lĩnh vực nhất định bao gồm sắt, thép, xi măng, nhôm và điện. Tuy nhiên, phạm vi có thể sẽ mở rộng và bao gồm nhiều sản phẩm hơn trong tương lai.

Mục tiêu cuối cùng của CBAM là bảo vệ các ngành công nghiệp EU khỏi sự cạnh tranh của các thực thể nước ngoài có mức độ ô nhiễm cao hơn và đảm bảo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp châu Âu. Các nhà xuất khẩu châu Á, giống như những nhà xuất khẩu từ Bangladesh, sẽ phải đối mặt với một thị trường khó khăn hơn trong bối cảnh nhu cầu hàng hóa ở EU có thể sụt giảm.

Để tránh chi phí đáng kể liên quan đến CBAM, theo bà Sonja Cheung, Giám đốc của Hội đồng Doanh nghiệp Châu Á, các nước châu Á phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch vì việc sử dụng năng lượng xanh góp phần giảm đáng kể lượng khí thải trong sản xuất.

Do những hạn chế về đất đai và lưới điện, Bangladesh đang tập trung vào năng lượng mặt trời và năng lượng gió trên mái nhà, bên cạnh năng lượng tái tạo phi tập trung. Với sự nguồn nước dồi dào, năng lượng mặt trời nổi là một lựa chọn tiềm năng của Bangladesh, mặc dù nước này vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. Bangladesh đang đặt mục tiêu sản xuất ít nhất 40% điện năng từ năng lượng tái tạo vào năm 2040.

Ngoài ra, bà Cheung nhận định, việc giảm lượng khí thải từ hoạt động vận tải sẽ hỗ trợ sản xuất có trách nhiệm. Ví dụ, Bangladesh đang rút ngắn chuỗi cung ứng bằng cách sản xuất sợi trong nước để hợp lý hóa quy trình sản xuất.

Đẩy mạnh hợp tác cũng là việc cần thiết để tăng cường sử dụng công nghệ, và hỗ trợ quản lý chất thải. Các sáng kiến như Liên minh đối tác quốc tế thúc đẩy thời trang tuần hoàn của Bangladesh hỗ trợ các nhà sản xuất hàng may mặc tăng cường tái chế và tái sử dụng chất thải vào các sản phẩm thời trang.

Các nhà sản xuất châu Á muốn trở nên bền vững hơn cũng nên áp dụng ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Ví dụ, sử dụng AI và các thuật toán nâng cao để phân tích dữ liệu khách hàng nhằm giảm tỷ lệ hoàn trả và giảm thiểu lượng khí thải vận chuyển.

Bằng cách áp dụng các hoạt động bền vững, tăng cường cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ thuật số cũng như thúc đẩy sự hợp tác trong khu vực, các nước châu Á không chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu quốc tế mà còn đảm bảo lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

 

Nguồn: Báo diễn đàn doanh nghiệp

Tổ Biên tập của Tiểu ban kinh tế – xã hội họp phiên đầu tiên

Ngày 20/3, Tổ Biên tập của Tiểu ban kinh tế – xã hội họp phiên đầu tiên, với mục tiêu góp ý cho dự thảo Đề cương Báo cáo Đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2026 – 2030 (gọi tắt là Báo cáo kinh tế – xã hội), trình Tiểu ban thông qua để trình Đại hội Đảng.

Khai mạc phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Tổ trưởng Tổ Biên tập nhấn mạnh yêu cầu phải đánh giá, nhận định thật đúng, thật sát thực trạng phát triển, dự báo chính xác tình hình và đề xuất được các giải pháp đột phá để phấn đấu thực hiện đạt mức cao nhất các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 trong bối cảnh giai đoạn tới còn nhiều khó khăn, thách thức.

Trình bày Dự thảo Đề cương Báo cáo, ông Trần Hồng Quang, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, dự thảo được xin ý kiến gồm 3 phần: đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2026 – 2030; tổ chức thực hiện.

Ông Trần Hồng Quang, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày Dự thảo Đề cương Báo cáo. (Ảnh: Minh Trang)

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ rõ, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 xác định 3 đột phá chiến lược gồm: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng. Theo đó, phải tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Do vậy, việc xây dựng dự thảo đề cương đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược này cần bám sát các đột phá đã được xác định; các nội dung đánh giá cần phải có dẫn chứng, số liệu, kết quả cụ thể.

Cùng với đó, bám sát tình hình, bối cảnh thực tiễn của quốc tế và trong nước; các xu hướng mới; tập trung phân tích, đánh giá kết quả về tình hình kinh tế vĩ mô; hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế; phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực; giáo dục và đào tạo; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển kết cấu hạ tầng; phát triển văn hóa, xã hội; quản lý và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế…

Đối với dự thảo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2026 – 2030, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng cho rằng, bên cạnh chỉ ra các kết quả nổi bật, cần tập trung đánh giá được các tồn tại, hạn chế; đưa ra bài học kinh nghiệm. Từ đó, xác định phương hướng, nhiệm vụ cụ thể cho giai đoạn tới thông qua các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế-xã hội, môi trường. Đặc biệt, bên cạnh các lĩnh vực đã được xác định cần nghiên cứu các ngành, lĩnh vực theo xu thế như tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng; chuyển đổi số; công nghệ cao.

Các ý kiến thảo luận của các đồng chí Thành viên Tổ Biên tập tại phiên họp đánh giá dự thảo Đề cương Báo cáo kinh tế – xã hội về cơ bản đã bao quát khá toàn diện, đầy đủ các vấn đề. Các đại biểu đã góp ý bổ sung thêm các nhận định, đánh giá tình hình và đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu cho các ngành, lĩnh vực cũng như đối với các vấn đề tổng thể chung của đất nước, thể hiện quyết tâm cao trong thực hiện các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ mà Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030 đã đề ra.

Toàn cảnh phiên họp. (Ảnh: Minh Trang)

Kết luận Phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Tổ trưởng Tổ Biên tập đánh giá, các ý kiến tại phiên họp rất phong phú, sâu sắc, có giá trị để Thường trực Tổ Biên tập tiếp tục tiếp thu, hoàn thiện.

Bộ trưởng giao bộ phận Thường trực Tổ Biên tập tiếp thu tối đa các ý kiến của các thành viên Tổ Biên tập để hoàn thiện dự thảo Đề cương Báo cáo kinh tế – xã hội và chuẩn bị trình Tiểu ban kinh tế – xã hội, trình Bộ Chính trị.

Bộ trưởng yêu cầu bộ phận Thường trực Tổ Biên tập phải bám sát, rà soát các chiến lược, các nghị quyết mới của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia, các vùng, các địa phương, các chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đánh giá xu hướng hiện nay, xác định đâu là thách thức, đâu là cớ hội. Bộ trưởng cũng lưu ý, việc đánh giá phải khách quan, chính xác, “không tô hông, không bôi đen”.

Theo kế hoạch, dự thảo Đề cương sẽ được đưa ra thảo luận tại Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương tổ chức vào tháng 5/2024. Sau khi Ban Chấp hành Trung ương thông qua Đề cương, Tổ Biên tập sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm việc để xây dựng dự thảo Báo cáo kinh tế – xã hội, trình Tiểu ban kinh tế – xã hội.

Tổ Biên tập của Tiểu ban kinh tế – xã hội được thành lập theo Quyết định số 228/QĐ-TTg ngày 12/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Tiểu ban. Tổ Biên tập có nhiệm vụ giúp việc cho Tiểu ban kinh tế – xã hội, một trong năm Tiểu ban được thành lập nhằm chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Nhiệm vụ trọng tâm của Tổ Biên tập là tham mưu Tiểu ban kinh tế – xã hội xây dựng Báo cáo kinh tế – xã hội, trình Tiểu ban thông qua để trình Đại hội Đảng.

Tổ Biên tập gồm 63 thành viên là đại diện Lãnh đạo các cơ quan của Đảng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Ủy ban của Quốc hội, các Bộ, ngành Trung ương, Lãnh đạo UBND của 09 địa phương trên các vùng và các đồng chí là lãnh đạo cấp Tổng cục, Cục, Vụ, Viện của các cơ quan trung ương. Đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Thủ tướng Chính phủ phân công làm Tổ trưởng Tổ Biên tập.

 

Nguồn: Báo đầu tư

Chủ tịch Agribank: Có những doanh nghiệp đang được vay với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động

Nguyên nhân khiến tín dụng tăng chậm

Phát biểu tại Hội nghị Hội nghị triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024 tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô do Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phó thủ tướng Lê Minh Khái chủ trì hôm nay (14/3), Chủ tịch HĐTV Agribank Phạm Đức Ấn cho biết, tín dụng 2 tháng đầu năm của Agribank đang giảm mạnh hơn mức giảm bình quân của toàn hệ thống ngân hàng, bất chấp lãi suất giảm sâu và ngân hàng đã đưa ra hàng loạt giải pháp để “kích” tín dụng.

Theo Chủ tịch Agribank, thực tế đang diễn ra hiện nay là giữa các ngân hàng thương mại đang cạnh tranh rất quyết liệt, giảm lãi suất cho vay rất thấp đối với các khoản vay mới để thu hút khách hàng tốt, thậm chí cho vay để trả nợ ngân hàng khác. Vì vậy, khả năng doanh nghiệp đang chuyển dịch từ vay ngân hàng này sang ngân hàng khác, hoặc đảo nợ cũ thành nợ mới có lãi suất thấp hơn. Điều này cũng lý giải cho việc, mặc dầu doanh số cho vay tăng nhưng dư nợ vẫn giảm.

“Hiện nay, đã có những doanh nghiệp đang được vay với lãi suất thấp hơn cả lãi suất huy động và không loại trừ có doanh nghiệp đang vay ngân hàng này để gửi vào ngân hàng khác”, ông Phạm Đức Ấn nêu lên thực tế.

Theo lãnh đạo Agribank, ngay từ đầu năm, ngân hàng này đã liên tiếp giảm lãi suất cho vay,  trieenrkhai nhiều giải pháp khuyến khích tăng tín dụng song chênh lệch thu chi của Agribank sau gần 3 tháng đầu năm 2024 vẫn giảm tới 2.000 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2023.

Lý giải tín dụng giảm dù ngân hàng nỗ lực giảm lãi suất và thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy tín dụng, ông Phạm Đức Ấn chỉ ra một số nguyên nhân.

Thứ nhất là do yếu tố mùa vụ đặc thù. Đơn cử, với Agribank, khách hàng đến vụ thu hoạch bán sản phẩm trả nợ ngân hàng, vay bán hàng phục vụ cho dịp Tết nguyên đán có tiền bán hàng trả nợ, thậm chí gửi tiền vào ngân hàng và chưa vào vụ gieo trồng nên chưa có nhu cầu về giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nên chưa có nhu cầu vay vốn.

Thứ hai, với sức cầu yếu cả trong và ngoài nước, người dân thận trọng, thắt chặt chi tiêu, ảnh hướng đến sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, từ đó tín dụng cũng không tăng trưởng được.

Thứ ba, đâu đó còn có yếu tố nguyên nhân chủ quan từ ngân hàng thương mại như Ngân hàng Nhà nước đã đề cập, liên quan đến thủ tục cho vay thiếu cởi mở, mạnh dạn trong cho vay, hoặc yêu cầu về tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân trọng yếu.

Đòi nợ khó, ngân hàng e ngại cho vay doanh nghiệp thua lỗ, không tài sản thế chấp

Một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng chưa dám cởi mở thủ tục, mạnh dạn cho vay, dẫn tới tín dụng tăng chậm, theo lãnh đạo Agribank là việc đòi nợ khó khăn. Quyền chủ nợ chưa được bảo vệ đầy đủ là một trong các nguyên nhân khiến các ngân hàng thận trọng khi cho vay, đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo, không dám cho vay doanh nghiệp lỗ.

“Các ngân hàng thương mại vẫn e sợ khi không có được sự bảo đảm nào từ cơ quan bảo vệ pháp luật nếu không thu được nợ mà lại thiếu tài sản bảo đảm hay giải ngân cho doanh nghiệp đang lỗ. Vấn đề này các ngân hàng thương mại cũng đã trải nghiệm trên thực tế, dẫn tới tâm lý “cho vay có thiếu sót nhưng thu hồi được nợ còn hơn cho vay đúng mà không thu hồi đủ nợ”, Chủ tịch Agribank cho biết.

Lãnh đạo Agribank cho hay, theo tính chất hoạt động của ngành ngân hàng, khó khăn của ngành ngân hàng sẽ có độ trễ so với khó khăn của khách hàng vay. Điều này đang thể hiện trong số liệu nợ xấu của các ngân hàng.

Thực tế, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng đã tăng từ mức 2,03% cuối năm 2022 lên 4,55% cuối năm 2023. Với tình hình sức khỏe của doanh nghiệp và nền kinh tế hiện nay, nếu Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu nợ, giữ nguyên nhóm nwoj không được kéo dài, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ còn tăng cao hơn nữa.

Nợ xấu tăng, áp lực trích lập dự phòng tăng kéo theo lợi nhuận ngân hàng sụt giảm. Trong khi đó, việc cơ cấu nwoj cũng phải dựa trên khả năng cho phép của mỗi ngân hàng thương mại.

Tăng tín dụng, không chỉ dựa vào ngân hàng 

Chủ tịch Agribank cho rằng, mặc dầu kết quả kinh tế vĩ mô 2 tháng vừa qua có nhiều điểm sáng, tuy nhiên với tình hình thế giới diễn biến phức tạp nhiều mặt và khó đoán định như hiện nay, trong những tháng tới khó khăn trong xuất khẩu vẫn chưa thể cải thiện nhiều.

Do đó, động lực cho tăng trưởng căn bản vẫn là giải quyết những vấn đề từ bên trong, đó là vấn đề đầu tư công và chính sách tài khoá, từ đó tạo động lực cho sản xuất kinh doanh. Đồng thời, qua đó kỳ vọng về thu nhập của người dân tăng lên cũng sẽ làm giảm tâm lý phòng thủ, kích thích tiêu dùng, từ đó nhu cầu tín dụng mới tăng lên.

Ngoài ra, để thuc đẩy tín dụng cần phải giải quyết các vướng mắc về pháp lý liên quan đến bất động sản và thủ tục đầu tư xây dựng cũng như giải quyết vấn đề trách nhiệm và đạo đức công vụ.

“Để xử lý triệt để thì cần có những cuộc khảo sát trực tiếp những vướng mắc điển hình để xử lý, từ đó đưa ra được những giải pháp chung nhằm giải quyết nhanh các bất cập, làm tăng cơ hội giải ngân của hệ thống ngân hàng”, ông Phạm Đức Ấn đề nghị.

Cũng theo lãnh đạo ngân hàng này, Nhà nước cần sớm có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và tiêu chuẩn môi trường ngày càng nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu hàng hoá. Agribank sẽ đồng hành, có chính sách tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp để chuyển đổi xanh thành công.

 

Nguồn: Báo Đầu tư