Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp

Sự kiện do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì, được kết nối với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Hội nghị còn có sự tham dự của đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Công an; đại diện các cục, vụ chức năng thuộc Bộ Công Thương.

Khai mạc Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì Hội nghị

Theo Cục Công thương địa phương, dưới sự chỉ đạo của Đảng, sự vào cuộc của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, thời gian qua công tác quản lý, phát triển cụm công nghiệp đã từng bước có bước chuyển mạnh mẽ và đạt được những kết quả tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp; đóng góp cho ngân sách cũng như GDP, tạo mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ cá thể mở rộng và phát triển sản xuất và có điều kiện đầu tư công nghệ mới kết hợp với công nghệ cổ truyền sản xuất các mặt hàng mới phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu; tạo điều kiện xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề, đồng thời giải quyết nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn; góp phần bảo vệ môi trường… Đặc biệt đã góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước “ly nông bất ly hương” và xây dựng nông thôn mới.

Với vai trò là cơ quan quản lý ngành, Bộ Công Thương đã tham mưu, nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý, phát triển cụm công nghiệp, trong đó phải kể đến Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.

Tuy nhiên, quá trình việc triển khai thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP đã gặp vướng mắc, khó khăn do chưa đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành như Luật Đầu tư, Xây dựng, pháp luật Đất đai,… và một số nội dung, quy định của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP về phương án phát triển CCN; điều kiện thành lập, mở rộng CCN; chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN; xử lý CCN hình thành trước Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg, … cũng cần được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung lại cho phù hợp với yêu cầu quản lý CCN và các yêu cầu mới.

Tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển bền vững các CCN được ở các văn bản như: Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta 10 năm 2011-2020, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030; Kết luận số 54-KL/TW ngày 07/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045…

Khai mạc Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp
Ông Ngô Quang Trung, Cục trưởng Cục Công Thương địa phương phát biểu tại hội nghị

Đồng thời thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, đồng thời hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, phát triển CCN; đảm bảo quy hoạch, phát triển CCN bền vững, trật tự, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương; kịp thời tháo gỡ những bất cập phát sinh trong thực tiễn, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2024/NĐ-CP về quản lý, phát triển CCN (Nghị định số 32/2024/NĐ-CP), thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.

Nghị định số 32/2024/NĐ-CP gồm 7 Chương và 38 Điều. Bên cạnh quy định chung, Nghị định quy định Phương án phát triển, thành lập, mở rộng CCN; Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, trong đó quy định về việc xác định chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; trình tự đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của CCN; quy hoạch chi tiết xây dựng CCN; quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; quản lý các dịch vụ công cộng, tiện ích; quyền của chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; nghĩa vụ của chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN.

Khai mạc Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp
Ông Nguyễn Văn Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương báo cáo nội dung Nghị định

Nghị định cũng quy định về đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN bao gồm tiếp nhận dự án đầu tư vào CCN; thuê đất, cấp giấy phép xây dựng trong CCN; quyền của tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN; quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, Nghị định cũng đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN.

Về công tác quản lý nhà nước đối với CCN, Nghị định quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước về CCN của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành; quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Bộ Công Thương và các Bộ khác liên quan (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Công an), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Công Thương và Ủy ban nhân dân cấp huyện…

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2024; thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP; các nội dung về quy định chuyển tiếp được quy định tại Điều 35 của Nghị định

Trong khuôn khổ Hội nghị, đại diện Cục Công Thương địa phương cũng thông tin, phổ biến về một số nội dung cơ bản trong Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 32/2024/NĐ-CP; một số nội dung Nghị định số 43/2024/NĐ-CP ngày 19/4/2024 quy định chi tiết về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ mới được ban hành.

Nhóm phóng viên báo Công Thương

Hỗ trợ lãi suất 2%: Kỳ vọng rất lớn, kết quả rất thấp

Kỳ vọng rất lớn, kết quả rất thấp, nhận xét này được đoàn giám sát của Quốc hội dành cho gói hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội.

Kết quả giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội về “Việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023”, là nội dung được Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét vào sáng 22/4.

Ý kiến nhiều chiều từ khi Nghị quyết đang còn dự thảo, đến khi thực hiện, chính sách hỗ trợ lãi suất (2%/năm) tối đa 40 nghìn tỷ đồng qua hệ thống ngân hàng thương mại cho một số ngành, lĩnh vực quan trọng, có thể coi là thất bại.

Đoàn giám sát cho biết, số liệu thực hiện đến ngày 31/12/2023, số hỗ trợ lãi suất của chính sách đạt khoảng 1.218 tỷ đồng cho gần 2.300 khách hàng, chỉ bằng 3,05% gói hỗ trợ.

Đoàn giám sát nhấn mạnh, gói hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại là một trong những giải pháp được kỳ vọng rất lớn trong hỗ trợ doanh nghiệp, người dân giảm chi phí kinh doanh, khôi phục sản xuất, hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế; Tuy nhiên, kết quả thực hiện đạt rất thấp, không đi vào thực tế cuộc sống, kết quả thực hiện chỉ đạt 3,05% tổng quy mô nguồn lực (40.000 tỷ đồng).

“Đây là nội dung cần rút kinh nghiệm và làm rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc nghiên cứu, dự báo, đề xuất chính sách không sát với thực tiễn, gây lãng phí nguồn lực, làm giảm hiệu quả của Chương trình”, báo cáo nêu rõ.

Đề cập nguyên nhân, đoàn giám sát dẫn báo cáo của Chính phủ, là khách hàng đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách, chủ yếu do tâm lý e ngại công tác thanh tra, kiểm tra (đặc biệt là doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất (phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Đồng thời, khách hàng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất do số tiền này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông.

Nguyên nhân nữa là khó khăn trong việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện “có khả năng phục hồi” theo quy định tại Nghị quyết 43 trong khi các văn bản hướng dẫn không có tiêu chí cụ thể. Khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ nhưng cũng không thể khẳng định có khả năng phục hồi, khách hàng được hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí nêu trên làm cho ngân hàng thương mại và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá trục lợi chính sách.

Năm 2022, tình hình kinh tế xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các đối tượng ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất nói riêng có nhiều chuyển biến so với thời điểm ban hành Nghị quyết 43 và Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường sau dịch COVID-19 dẫn đến nhu cầu được hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách (thay vì nhu cầu hỗ trợ lãi suất thì có nhu cầu được hỗ trợ trực tiếp hoặc giảm thuế, phí, lệ phí).

Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các ngân hàng thương mại, tuy nhiên không đăng ký hộ kinh doanh nên không thuộc đối tượng hỗ trợ

Một số khách hàng có năng lực tài chính, lịch sử tín dụng tốt, được ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi nên lựa chọn không thụ hưởng chính sách do tự đánh giá đã được cho vay với lãi suất phù hợp theo các chương trình ưu đãi của ngân hàng thương mại.

Bên cạnh những nguyên nhân Chính phủ đã nêu, báo cáo nêu rõ, qua giám sát cho thấy, công tác hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách còn nhiều lúng túng.

Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, một số ngân hàng thương mại ban hành văn bản nội bộ hướng dẫn còn chậm (MBBank, NCB, VIB, HSBC, Publicbank), chưa thực sự chú trọng tập huấn, hướng dẫn đào tạo nội bộ (NCB).

Một số ngân hàng chưa thực sự chủ động tiếp cận, đồng hành, hướng dẫn khách hàng hiểu đúng, đủ về chính sách , chưa kịp thời khắc phục, báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh chính sách khi có vướng mắc phát sinh.

Vẫn theo đoàn giám sát, công tác truyền thông chưa thực sự được chú trọng, chưa mang tính định hướng, không đẩy mạnh truyền thông sâu rộng đến từng khách hàng đủ điều kiện hỗ trợ lãi suất.

Dẫn lại thông tin từ Ủy ban Kinh tế, đoàn giám sát nêu, kết quả khảo sát doanh nghiệp của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ có 29,5% doanh nghiệp biết tới chính sách này, trong đó có khoảng 2% doanh nghiệp đã nhận được khoản vay theo Chương trình hỗ trợ lãi suất 2%. Có tới 56,7% doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay theo gói hỗ trợ này. Đa số các doanh nghiệp cho biết điều kiện cho vay khó khăn là trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay theo gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Theo đoàn giám sát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trong tham mưu đề xuất, báo cáo Quốc hội xem xét quyết định chính sách chưa sát với thực tiễn, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Nguồn: Báo đầu tư

Vốn FDI chảy mạnh vào dự án dệt may

Vốn chảy vào các dự án thượng nguồn

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Yi Da Denim Mill  (VN) Co.Ltd triển khai dự án sản xuất các sản phẩm dệt may tại Khu công nghiệp Dệt may Rạng Đông (Nghĩa Hưng) được Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Nam Định cấp trong tháng 2/2024. Theo giấy chứng nhận, Dự án có tổng vốn đăng ký 1.467 tỷ đồng, chia làm 3 giai đoạn.

Giai đoạn I của Dự án có mức đầu tư hơn 880 tỷ đồng, thực hiện đầu tư sản xuất vải có nhuộm, vải không nhuộm và quần áo, sẽ đi vào sản xuất chính thức từ quý III/2026. Các giai đoạn sau của Dự án dự kiến được thực hiện từ quý IV/2026 đến quý IV/2030. Đây là dự án được đầu tư bởi Tập đoàn Crystal, Hồng Kông (Trung Quốc).

Trước khi đầu tư dự án ở Nam Định, Tập đoàn Crystal đã có nhà máy hoạt động tại Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, Phú Thọ và Bình Dương, với tổng doanh thu xuất khẩu tại Việt Nam khoảng 1 tỷ USD, giải quyết việc làm cho 40.000 lao động.

Công ty khóa kéo hàng đầu thế giới YKK đã đầu tư thêm nhà máy thứ hai tại Việt Nam, đặt tại Khu công nghiệp Đồng Văn (Hà Nam), với quy mô và công nghệ hiện đại hơn hẳn nhà máy đã đầu tư tại Đồng Nai. Ông Yuji Furukawa, Tổng giám đốc YKK Việt Nam cho biết, sau 25 năm hiện diện, YKK Việt Nam tăng sản lượng dây khóa kéo gấp 100 lần, tăng số lượng nhân sự gấp bảy lần, với 2.800 người.

Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) nhận định, vốn FDI vào lĩnh vực dệt may tăng nhanh trong quý IV/2023 và quý I/2024l. Trong khi các dự án vải, khoá kéo, chỉ may mở rộng đầu tư, thì vốn vào ngành sợi có sự chững lại. Một số dự án đã đầu tư trong năm 2022-2023 bắt đầu hoàn thành, đưa vào sản xuất, giúp nâng cao năng lực cung ứng của ngành và tạo cú hích cho các dự án mới.

Mới đây, Tập đoàn SAB (Trung Quốc) đưa vào hoạt động Nhà máy công nghiệp SAB Việt Nam tại Khu công nghiệp Bỉm Sơn (Thanh Hóa). Nhà máy được khởi công từ tháng 7/2022, có quy mô diện tích 66,44 ha, tổng vốn đầu tư khoảng 62 triệu USD. Nhà máy chuyên sản xuất phụ kiện quần áo như dây khóa kéo kim loại, dây khóa kéo nhựa, dây khóa kéo nylon, cúc nhựa, cúc kim loại… Dự án đi vào vận hành giúp làm giảm nhập khẩu các loại nguyên liệu này của ngành dệt may.

Cú hích từ các FTA

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Vitas đánh giá, nhiều nhà sản xuất dệt may quốc tế đã và đang mở rộng hoạt động tại Việt Nam để tận dụng lợi thế về môi trường đầu tư, lao động và độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn. “Tôi cho rằng, loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP mà Việt Nam là thành viên là động lực thu hút các nhà đầu tư trong nước, cũng như nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phân khúc nguồn cung thiếu hụt của ngành dệt may”, ông Giang nói.

Theo ông Yuji Furukawa, trước đây, YKK Việt Nam phải nhập một số sản phẩm đầu khóa kéo từ các công ty YKK nước ngoài để cung cấp cho các khách hàng nội địa, nhưng hiện nay, nhà máy ở Việt Nam đã sản xuất đa phần các sản phẩm của YKK.  Ngoài “xuất khẩu tại chỗ”, sản phẩm còn được xuất khẩu sang các nước như Campuchia và Myanmar.

Cùng với việc giúp ngành dệt may giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, nguồn vốn FDI còn góp phần giải quyết một số vấn đề trọng yếu: thời gian sản xuất nhanh hơn, chi phí vận chuyển thấp hơn, giá cạnh tranh hơn, tận dụng ưu đãi thuế quan từ 15 FTA hiện hành.

Được biết, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đang dần phục hồi sau năm 2023 tăng trưởng âm. Quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt gần 8 tỷ USD, tăng 7,9%; xuất khẩu xơ sợi dệt đạt 1,05 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp FDI đóng góp trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Nguồn: Báo đầu tư

Việc làm trong ngành giấy tăng 10,9% từ năm 2012 đến năm 2022

Năm 2012, con số này là 574.800 người, trong đó phần lớn (559.700) là người làm công và số còn lại đăng ký là người tự kinh doanh (14.600). Không rõ 500 cá nhân còn lại là nhân viên hay tự kinh doanh.

Năm 2022, có 637.300 người đang làm việc trong ngành. Trong số này, 622.700 người là nhân viên, mang lại mức tăng 11,3% (+63.000) cho ngành kể từ năm 2012. Những người tự kinh doanh làm việc trong ngành giấy, có mức giảm nhẹ (-300; -2,1%) .

Ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy chiếm 19,9% toàn ngành liên quan đến lâm nghiệp và công nghiệp chế biến gỗ năm 2022.

Nguồn: papnews.com

Biên dịch và tổng hợp VPPA

Kinh tế Mỹ ra sao nếu Fed không giảm lãi suất năm nay

Vài tháng qua, quan chức Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) luôn khẳng định cần thêm bằng chứng lạm phát giảm dần về 2% để hạ lãi suất. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 của nước này tiếp tục tăng, khiến Chủ tịch Fed Jerome Powell đầu tuần này khẳng định sẽ không hành động sớm.

“Dữ liệu gần đây không khiến chúng tôi tự tin hơn. Thay vào đó, nó cho thấy phải mất thêm một thời gian nữa, lạm phát mới về mục tiêu 2%”, Powell cho biết trong một sự kiện hôm 16/4.

Chứng khoán Mỹ đã giảm điểm sau phát biểu này. Lợi suất trái phiếu chính phủ cũng lập đỉnh mới. Các thị trường, doanh nghiệp và Nhà Trắng đều quan tâm đến thời điểm và số lần hạ lãi suất năm nay. Tuy nhiên, triển vọng giảm lãi sớm hiện không mấy sáng sủa. Giới chuyên gia cho rằng trong dài hạn, kinh tế Mỹ khó có thể chống chịu tốt với mức lãi cao như hiện tại.

Thị trường lao dốc

Khi quan chức Fed ám chỉ có thể điều chỉnh 3 lần trong năm nay, Wall Street đã lập đỉnh mới. Đầu năm nay, nhà đầu tư đặt cược lần điều chỉnh đầu tiên có thể đến ngay trong tháng 3.

Bởi, mức lãi thấp sẽ giúp chi phí vay của doanh nghiệp giảm, từ đó gia tăng lợi nhuận. Tức là, nhà đầu tư có nhiều tiền hơn để rót vào thị trường.

Lạm phát Mỹ tăng tốc trở lại vài tháng qua, giới phân tích cũng lùi dự báo về thời điểm nâng lãi sang tháng 6. Tuy nhiên, họ vẫn lạc quan khi biên bản cuộc họp tháng 3 cho thấy quan chức Fed giữ kế hoạch giảm lãi 3 lần. Chứng khoán vì thế liên tiếp lập đỉnh mới.

Tuy nhiên, sau khi lạm phát tháng 3 được công bố mạnh hơn dự báo, cả ba chỉ số chủ chốt của Wall Street quay đầu giảm. Tuần qua, DJIA, S&P 500 và Nasdaq Composite mất 2%.

Itay Goldstein – Giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Wharton thuộc Đại học Pennsylvania, nhận định chứng khoán bị bán tháo, song thị trường vẫn kỳ vọng Fed giảm lãi suất năm nay.

“Rủi ro là nếu Fed không giảm lãi, thị trường sẽ đi xuống”, ông cảnh báo trên CNN.

Việc này sẽ tác động lan truyền đến toàn bộ nền kinh tế. Giá cổ phiếu hạ khiến các doanh nghiệp cắt giảm chi phí hoặc trì hoãn đầu tư. Ví dụ, Tesla gần đây thông báo giảm 10% nhân sự, trong bối cảnh cổ phiếu hãng xe điện Mỹ lao dốc.

Thị trường đi xuống cũng có thể khiến các hộ gia đình “cảm thấy bớt giàu”, Goldstein nói. Điều này khiến họ giảm chi tiêu.

Xác suất kinh tế suy thoái tăng

Sau 11 lần tăng liên tiếp, Fed quyết định giữ nguyên lãi suất từ giữa năm ngoái. Nhưng kể từ đó, cơ quan này luôn lặp lại thông điệp sẽ giữ lãi cao trong thời gian dài hơn.

Goldstein cảnh báo Fed duy trì chính sách tiền tệ như hiện nay, các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ chịu nhiều tổn thương.

Đến nay, kịch bản suy thoái của Mỹ vẫn còn cách khá xa, đặc biệt sau báo cáo doanh số bán lẻ tháng 3 tăng vượt dự báo hai tháng liên tiếp. Điều này cho thấy người tiêu dùng chi tiêu bất chấp lạm phát và lãi suất cao nhất hai thập kỷ.

Dù vậy, lãi cao khiến người dân có xu hướng tiết kiệm hơn là chi tiêu. Việc này sẽ giảm tốc nền kinh tế. Rủi ro suy thoái gia tăng nếu Fed không điều chỉnh năm nay, Goldstein nói.

Về dài hạn, chi phí đi vay tăng nhanh, tác động tiêu cực đến tiêu dùng, đầu tư và thị trường nhà ở, theo Brian Rose – nhà kinh tế học tại UBS Global Wealth Management.

Tuy nhiên, không phải ai cũng cho rằng nền kinh tế sẽ tệ thêm nếu Fed không có thêm động thái điều chỉnh năm nay. “Chúng tôi cho rằng Mỹ hiện đủ mạnh, không cần đến việc giảm lãi để tránh suy thoái”, David Mericle – nhà kinh tế học tại Goldman Sachs kết luận.

Hà Thu (theo CNN, Reuters)

Tỷ giá sẽ dần hạ nhiệt từ cuối quý 2/2024, lãi suất duy trì ở mức thấp

Lợi nhuận ngân hàng sẽ khả quan hơn, tăng từ 10-15%

Thông tin tại Hội thảo “Thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024” diễn ra ngày 16/4, nhóm nghiên cứu từ Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (NFSC) đã dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2024 có thể đạt 6-6,5% (kịch bản cơ sở) với các động lực tăng trưởng phục hồi tốt hơn năm 2023, lạm phát tăng khoảng 3,4-3,8%, trong mục tiêu là 4-4,5%.

Theo ông Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách NFSC, kinh tế năm 2024 có nhiều triển vọng hơn 2023 nhờ việc đẩy mạnh đầu tư công và các chính sách cụ thể thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh tế tiêu dùng, đầu tư…

Cùng với khu vực kinh tế thực, theo nhóm chuyên gia, khu vực tài chính của Việt Nam năm 2024 được dự báo sẽ tích cực hơn. Chính sách tiền tệ được dự báo theo hướng chủ động, linh hoạt, lãi suất duy trì ở mức thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Tỷ giá mặc dù còn chịu áp lực lớn trước khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định giảm lãi suất nhưng sẽ hạ nhiệt dần từ cuối quý 2/2024, với mức tăng khoảng 2,5-3% trong năm 2024.

Ngoài ra, cơ cấu cung ứng vốn của nền kinh tế trong năm 2024 và các năm tiếp theo được kỳ vọng chuyển dịch theo hướng tích cực hơn khi giảm dần tỷ trọng của kênh tín dụng, tăng tỷ trọng qua kênh thị trường vốn và đầu tư tư nhân.

Thanh khoản thị trường được kỳ vọng có sự cải thiện tích cực. Tăng trưởng tín dụng dự báo ở mức 14−15% nhờ kinh tế tăng trưởng cao hơn, lãi suất thấp và thị trường bất động sản, tiêu dùng phục hồi tốt hơn.

Tăng trưởng lợi nhuận của các định chế tài chính năm 2024 được dự báo sẽ ở mức cao hơn năm 2023, do kinh tế phục hồi và tăng trưởng cao hơn; sản xuất và tiêu dùng đang hồi phục cũng như chủ trương về thúc đẩy tín dụng tiêu dùng…

Trong đó, lợi nhuận ngân hàng dự báo sẽ khả quan hơn, tăng từ 10-15% so với năm trước, nhưng có sự phân hóa giữa các ngân hàng tùy thuộc vào năng lực tài chính, kế hoạch tăng trưởng tín dụng được phê duyệt, chất lượng tài sản, phát triển dịch vụ…

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho biết, khung pháp lý cho thị trường tài chính tiếp tục được hoàn thiện.

Trong đó, thay đổi đáng quan tâm nhất là Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2024 và các luật quan trọng khác như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản… có hiệu lực từ đầu năm 2025, với nhiều điểm mới quan trọng.

Bên cạnh đó, pháp lý cho thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng thúc đẩy thị trường hoạt động an toàn, bền vững, hướng tới mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2025.

Nợ xấu sẽ đạt đỉnh trong quý 2/2024

Các chuyên gia cũng chỉ rõ, thị trường tài chính trong năm 2024 vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm như, nợ xấu còn gia tăng trong nửa đầu năm nhưng sẽ giảm dần cùng với đà phục hồi của nền kinh tế. Chuyên gia Cấn Văn Lực cho biết nhóm nghiên cứu dự báo nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ đạt đỉnh trong quý 2/2024.

Tỷ giá sẽ dần hạ nhiệt từ cuối quý 2/2024, lãi suất duy trì ở mức thấp
Nguồn: Báo cáo Thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024.

Ngoài ra, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu nhưng tín dụng đang phục hồi và cả năm có thể tăng 14-15%. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản phục hồi chậm và cần thời gian để chuyển biến rõ nét hơn. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số và xu hướng tăng trưởng xanh, tài chính xanh đòi hỏi nguồn lực đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực chất lượng cao…

Về vấn đề này, ông Vũ Nhữ Thăng nhấn mạnh đến rủi ro liên thông giữa thị trường bất động sản với thị trường tài chính còn tiềm ẩn, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, cùng những rủi ro liên quan đến công nghệ và an ninh mạng gia tăng, đòi hỏi kiểm soát hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Vì thế, để ổn định và phát triển thị trường tài chính, nhóm chuyên gia đề nghị phải tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp để giảm bớt áp lực nguồn vốn trung – dài hạn cho hệ thống ngân hàng, hiện thực hóa việc nâng hạng thị trường chứng khoán theo đúng kế hoạch đề ra; đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý – giám sát thị trường tài chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện tại cũng như tận dụng xu hướng mới, cơ hội mới trong tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng, tài chính xanh và chuyển đổi số, trong đó có công nghệ tài chính (fintech)…

Ngoài ra, các chuyên gia khuyến nghị đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụn yếu kém; đẩy nhanh tháo gỡ pháp lý cho thị trường đất đai, bất động sản nhằm giải phóng nguồn lực, hỗ trợ xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa hệ thống…

Nguồn: Hải quan online

Doanh nghiệp vẫn mòn mỏi chờ hoàn thuế

Doanh nghiệp vẫn chờ

“Doanh nghiệp vẫn mòn mỏi chờ hoàn thuế”, ông Phạm Minh Khoa, Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại – Xuất nhập khẩu Toàn cầu An Phát (Công ty Toàn cầu An Phát) chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư.

Tâm trạng của ông rất bức xúc, vì phải nhắc lại vấn đề này, trong khi mảng xuất khẩu tinh bột sắn của Công ty đã phải ngừng hoạt động.

Lâu nay, Công ty hoạt động tương tự các doanh nghiệp khác trong Hiệp hội Các doanh nghiệp xuất khẩu tinh bột sắn. Trong 4 năm qua, Công ty Toàn cầu An Phát đã thực hiện 32 lần xuất khẩu tinh bột sắn, đóng thuế đầy đủ, có đủ hóa đơn, chứng từ mua bán qua ngân hàng, hàng hóa xuất ra có hải quan chứng nhận. Nhưng đến giờ, vào thời điểm tháng 4/2024, Công ty vẫn chưa được hoàn thuế giá trị gia tăng.

“Căn cứ theo quy định của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng, Công ty đã đủ điều kiện giống 31 kỳ đã hoàn thuế trước đó. Hơn thế, các điều kiện này giống y về bản chất và cùng chung khách hàng, nhiều công ty khác đã được hoàn thuế”, ông Khoa cám cảnh.

Doanh nghiệp đã kiến nghị tình hình này lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội. Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã đánh giá doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện để hoàn thuế giá trị gia tăng.

Tại phiên họp sáng 12/7/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội phát biểu rằng, việc hoàn thuế là có cơ sở. Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã thành lập đoàn giám sát. Các cục thuế Quảng Ninh và Lạng Sơn cũng đã đưa ra những cơ sở xác định doanh nghiệp tuân thủ đúng các quy định.

Phần việc còn lại, theo quy định trách nhiệm chức năng, nhiệm vụ, Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế chỉ đạo cấp dưới là cục thuế ra quyết định hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Song, đến thời điểm này, doanh nghiệp vẫn chưa nhận được quyết định hoàn thuế của Cục Thuế Hà Nội.

“Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3/2024, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục yêu cầu Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Vậy, liệu doanh nghiệp có được hoàn thuế hay không?”, ông Khoa đặt câu hỏi.

Ngành thuế nói gì?

Cho đến giờ, ông Khoa vẫn tiếp tục bày tỏ sự thất vọng với câu trả lời của lãnh đạo Tổng cục Thuế về yêu cầu hoàn thuế của Công ty Toàn cầu An Phát.

Trước đó, tại hội nghị đối thoại về chính sách, thủ tục hành chính thuế và hải quan, do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức, với sự tham dự của đại diện hơn 600 doanh nghiệp và hiệp hội, nóng nhất là vấn đề hóa đơn, hoàn thuế giá trị gia tăng.

“Giờ cơ quan thuế lại bảo doanh nghiệp muốn giải quyết thì đi kiện cơ quan thuế ra tòa. Thực sự, chúng tôi quá nản”.

Tại hội nghị này, ông Đặng Ngọc Minh, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, vấn đề của Công ty Toàn cầu An Phát là câu chuyện dài, liên quan đến việc hoàn thuế của một trong những doanh nghiệp về tinh bột sắn, thuộc lĩnh vực rủi ro.

Theo ông Minh, Bộ Tài chính đã có văn bản gửi Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội lý giải, việc chưa hoàn thuế giá trị gia tăng với Công ty Toàn cầu An Phát dựa trên căn cứ vào việc đánh giá rủi ro sau khi trao đổi thông tin với cơ quan quản lý của Trung Quốc.

“Quan điểm của Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế là Công ty nên tiếp tục vận dụng quyền và nghĩa vụ của mình, căn cứ vào quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Chúng tôi sẵn sàng giải quyết khi có phán quyết. Việc đánh giá rủi ro hồ sơ cụ thể thuộc thẩm quyền của Cục Thuế Hà Nội. Cục Thuế Hà Nội đã có văn bản trả lời, chúng tôi đã báo cáo Ban Dân nguyện để giải trình”, ông Đặng Ngọc Minh trả lời câu hỏi của Công ty Toàn cầu An Phát.

Ông Khoa nhắc lại, hồ sơ xuất khẩu tinh bột sắn của Công ty Toàn cầu An Phát không phải là trường hợp cá biệt. Phần lớn doanh nghiệp sắn đang thực hiện các hoạt động xuất khẩu như vậy và vẫn được hoàn thuế bình thường, vẫn tiếp tục các đơn hàng xuất khẩu. Chỉ có điểm khác là, Toàn cầu An Phát không được hoàn thuế, nên đã phải dừng mảng hoạt động này và đang mệt mỏi đi kêu cứu khắp nơi.

“Giờ cơ quan thuế lại bảo doanh nghiệp muốn giải quyết thì đi kiện cơ quan thuế ra tòa. Thực sự, chúng tôi quá nản”, ông Khoa nói.

Thực tế, đã có doanh nghiệp thực hiện quyền này. Ông Khoa dẫn chứng trường hợp của Công ty cổ phần Fococev Việt Nam, một doanh nghiệp hội viên Hiệp hội Sắn Việt Nam. Fococev Việt Nam đã kiện Cục trưởng Cục thuế TP.HCM ra Tòa án Nhân dân TP.HCM, khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế về việc thu hồi tiền hoàn thuế và tiền chậm nộp do xuất khẩu tinh bột sắn của công ty này. Tòa án đã tuyên doanh nghiệp thắng kiện tại Bản án số 1188/2023/HC-ST ngày 17/7/2023. Các cơ quan tố tụng cũng đã xác định rõ quyết định truy hoàn thuế của Cục trưởng Cục Thuế TP.HCM là sai. Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Thuế TP.HCM đang kháng cáo quyết định của Tòa án.

“Các doanh nghiệp trong Hiệp hội Sắn Việt Nam đang chờ kết quả phiên xử phúc thẩm tới đây. Tuy nhiên, tâm lý rất nặng nề, không biết sẽ tiếp tục theo đuổi vụ việc này thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình”, ông Khoa thẳng thắn.

Nguồn: Báo đầu tư

Chính phủ đề xuất sửa 3 luật thuế quan trọng

Có thể tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia

Dự kiến chiều nay (15/4), Ủy ban Thường vụ Quốc hội bắt đầu Phiên họp thứ 32, với nội dung đầu tiên được đặt lên bàn nghị sự là dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh năm 2024.

Tại tờ trình về nội dung này, Chính phủ đề nghị bổ sung vào chương trình của Kỳ họp thứ tám (tháng 10/2024) 7 dự án luật, trong đó có 2 dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Việc sửa đổi cả hai dự án luật đều nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, khơi thông, phát huy nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Với Dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), mục tiêu còn có chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí có hại cho sức khỏe và môi trường. Theo đó, Chính phủ đề nghị xây dựng luật với 7 nhóm chính sách, hoàn thiện các quy định về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế, căn cứ tính thuế, giá tính thuế, thuế suất, hoàn thuế và quy định về điều khoản thi hành.

Phối hợp thẩm tra đề nghị bổ sung Dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đánh giá, các nội dung được đề xuất sửa đổi, bổ sung qua tổng kết, đánh giá đều có vướng mắc, bất cập.

Liên quan đến các chính sách cụ thể, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cho rằng, bên cạnh “nước giải khát theo tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml”, có thể rà soát, bổ sung hàng hóa, dịch vụ vào đối tượng chịu thuế để đảm bảo tính bao quát.

Với chính sách hoàn thiện quy định về thuế suất, Chính phủ đề xuất quy định phương pháp tính thuế hỗn hợp (thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối) đối với mặt hàng thuốc lá. Đối với thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm từ cây thuốc lá, Chính phủ đề nghị bổ sung quy định thuế tuyệt đối. Tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt (thuế tỷ lệ phần trăm) đối với rượu, bia theo lộ trình cũng là đề xuất ở lần sửa đổi này.

Những đề xuất trên, theo Thường trực Ủy ban Tài chính –  Ngân sách của Quốc hội, sẽ tăng tính hiệu quả của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, góp phần định hướng tiêu dùng và phù hợp với xu hướng cải cách thuế của các nước. Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cũng cơ bản nhất trí với định hướng ưu đãi thuế suất đối với xe chạy bằng khí thiên nhiên (dự kiến áp dụng mức thuế suất bằng 70% xe ô tô chạy bằng xăng, dầu cùng loại).

Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) được đề nghị xây dựng với 7 nhóm chính sách liên quan đến người nộp thuế và chịu thuế, các khoản thu nhập được miễn thuế. Lần sửa đổi này cũng sẽ điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số nhóm đối tượng cho phù hợp với các yêu cầu và bối cảnh mới. Bên cạnh đó là hoàn thiện các quy định về ưu đãi thuế, áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu…

Tán thành bổ sung dự án luật này, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cơ bản nhất trí với một số chính sách cụ thể, như bổ sung quy định để áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (dự kiến mức thuế suất tương ứng 17% và 15%).

Lần này, Chính phủ cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về xác định thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh nghiệp có hoạt động sản xuất – kinh doanh (đang được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp) bị lỗ thì được bù trừ với lãi từ chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư.

Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cho rằng, cần lý giải rõ hơn về mục tiêu chính sách này, làm rõ về các đối tượng được thụ hưởng và lượng hóa tác động giảm thu đối với ngân sách nhà nước.

Liên quan đến chính sách về người nộp thuế và thu nhập chịu thuế, Chính phủ đề xuất mở rộng khái niệm cơ sở thường trú để bổ sung vào đối tượng nộp thuế các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp hàng hóa dịch vụ vào Việt Nam theo các hình thức thương mại điện tử, có thu nhập tại Việt Nam, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh.

Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cho rằng, quy định này chưa giải quyết được một cách triệt để vấn đề thu thuế với các nhà cung cấp nước ngoài qua nền tảng thương mại điện tử hiện nay. Bởi các nhà cung cấp nước ngoài chủ yếu đều là đối tượng cư trú tại các nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt  Nam, nên sẽ được miễn khoản thuế thu nhập doanh nghiệp này theo Hiệp định.

Thuế giá trị gia tăng phải giải quyết được các bài toán đặt ra từ thực tiễn

Sớm hơn một kỳ, Dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ bảy vào tháng 5 tới.

Theo dự thảo mới được Viện Nghiên cứu lập pháp (thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội) lấy ý kiến chuyên gia, Chính phủ dự kiến sửa đổi, bổ sung các nội dung quy định tại 10 điều của Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành, gồm: người nộp thuế; đối tượng không chịu thuế; giá tính thuế; thuế suất; phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào; các trường hợp hoàn thuế; hiệu lực thi hành; tổ chức thực hiện.

Đáng chú ý, Dự thảo đã bỏ 7 hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng gồm: phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; lưu ký chứng khoán; dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và Internet phổ cập theo chương trình của Chính phủ; dịch vụ duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng.

Một số chuyên gia cho rằng, cần bổ sung việc vận chuyển hành khách công cộng bằng tàu hỏa thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, quy định theo hướng hàng hóa, dịch vụ dùng để tặng, cho, biếu với mục đích từ thiện thì giá tính thuế được xác định bằng 0.

Về thuế suất, theo hồ sơ được công bố trên Cổng thông tin điện tử Quốc hội, Dự thảo bổ sung quy định cụ thể 3 nhóm hàng hóa không được áp dụng thuế suất 0% để luật hóa các quy định đang thực hiện ổn định tại các văn bản dưới luật, gồm thuốc lá, rượu, bia nhập khẩu sau đó xuất khẩu; xăng, dầu mua tại nội địa bán cho xe ô tô của cơ sở kinh doanh trong khu phi thuế quan, xe ô tô bán cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan; hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho cá nhân không đăng ký kinh doanh trong khu phi thuế quan.

Dự thảo cũng bổ sung quy định không được áp dụng thuế suất 0% đối với sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên các nền tảng số theo quy định của Chính phủ để đảm bảo tính linh hoạt cho việc xác định sản phẩm, dịch vụ này được tiêu dùng tại Việt Nam hay ở nước ngoài tại thời điểm cung cấp.

Theo cơ quan trình, việc xác định địa điểm tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên các nền tảng số là rất phức tạp, hiện nay đều chỉ căn cứ theo kê khai của người nộp thuế.

Về hoàn thuế, cũng có nhiều điểm mới đáng chú ý, trong đó có quy định rõ dự án đầu tư được hoàn thuế giá trị gia tăng là “dự án đầu tư (dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng) theo quy định của pháp luật đầu tư (bao gồm cả dự án đầu tư được chia thành nhiều giai đoạn đầu tư hoặc nhiều hạng mục đầu tư, trừ trường hợp dự án đầu tư không hình thành tài sản cố định) đang trong giai đoạn đầu tư”.

Tại phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 4/2024, Chính phủ đã cho ý kiến về Dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý yêu cầu sửa đổi luật cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, bám sát thực tiễn, giải quyết được các bài toán đặt ra từ thực tiễn. Công cụ thuế cần bảo vệ sản xuất trong nước, khuyến khích các lĩnh vực ưu tiên, nhưng hợp tình, hợp lý, phù hợp tình hình, linh hoạt; tính toán hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người dân; đẩy mạnh chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, thất thoát, buôn lậu.

Đề nghị điều chỉnh 7 dự án luật của chương trình năm 2024

Chính phủ đề nghị lùi Dự án Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật tại Kỳ họp thứ bảy của Quốc hội sang Kỳ họp thứ tám.

Tại Kỳ họp thứ tám, bên cạnh thông qua Dự án Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho ý kiến và thông qua Luật Điện lực (sửa đổi) theo quy trình 1 kỳ họp; cho ý kiến Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Công nghiệp công nghệ số.

Nguồn: Báo đầu tư

Thêm cơ hội phát triển hợp tác đầu tư, thương mại Việt – Trung

Nâng tầm kết nối chiến lược, tạo động lực tăng trưởng mới cho hợp tác hai nước, trọng tâm là thúc đẩy hợp tác thương mại, mở rộng nhập khẩu hàng hóa, nhất là nông sản của Việt Nam, đẩy mạnh kết nối giữa Việt Nam với những chiến lược phát triển lớn của Trung Quốc, kết nối đường sắt, đường bộ cao tốc, đường biển, đường không, thúc đẩy hợp tác tài chính, tiền tệ, chuyển đổi số… Đó là những nội dung được Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại cuộc hội kiến giữa hai nhà lãnh đạo đầu tuần này, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.

Thời gian qua, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng đi vào chiều sâu, thực chất và trở thành điểm sáng trong quan hệ hai nước. Kể từ khi thực hiện cam kết trong Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc đến nay, Trung Quốc đã giảm thuế cho hơn 8.000 mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường rộng lớn.

Số liệu của hải quan Việt Nam cho thấy, năm 2023, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Trung Quốc đạt gần 172 tỷ USD; còn theo số liệu của hải quan Trung Quốc là 229,8 tỷ USD. Riêng 2 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu song phương đạt 27,3 tỷ USD, tăng 28%; trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 8 tỷ USD, tăng 7,6%; nhập khẩu từ Trung Quốc 19,3 tỷ USD, tăng 38,8%.

Về đầu tư, năm 2023, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam 4,47 tỷ USD, tăng 77,5%, đứng thứ 4 trong các quốc gia và vùng lãnh thổ, song dẫn đầu về số dự án mới, chiếm 22,17%. Trong quý I/2024, Trung Quốc dẫn đầu về số dự án có vốn đầu tư nước ngoài mới vào Việt Nam, chiếm 27,8%.

Tại cuộc làm việc với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cuối tháng 3/2024, Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc cho biết, một số ngành sản xuất, thậm chí chuỗi sản xuất của Trung Quốc đã chuyển sang Việt Nam như dệt may, đồ gia dụng, đồ gỗ… Đầu tư của Trung Quốc sang Việt Nam tăng nhanh chóng, nhất là điện tử…

Theo Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba, lãnh đạo nhiều công ty năng lượng và sản xuất điện lớn của Trung Quốc đã sang Việt Nam khảo sát thị trường. Việc đẩy nhanh chuyển đổi và nâng cấp năng lượng có ý nghĩa rất lớn với sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.

“Các doanh nghiệp Trung Quốc có thể hỗ trợ mạnh mẽ cho Việt Nam trong các lĩnh vực tư vấn chính sách, dịch vụ kỹ thuật chuyển đổi năng lượng và phát triển điện năng, cũng như việc phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời, lưu trữ năng lượng, năng lượng hydro và các nguồn năng lượng mới khác”, Đại sứ Hùng Ba cho hay.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, Việt Nam khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng hợp tác đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh, như đổi mới sáng tạo, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh, điện tử, công nghiệp phụ trợ… “Bộ Kế hoạch và Đầu tư cam kết đồng hành, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Trung Quốc triển khai đầu tư các dự án thành công, hiệu quả, đôi bên cùng có lợi tại Việt Nam”, ông Dũng nói.

Theo các chuyên gia, Việt Nam là cửa ngõ kết nối Trung Quốc với các nước ASEAN theo cả hai hướng đường bộ và đường biển, có lợi thế cạnh tranh nổi bật, hội tụ các điều kiện trở thành điểm đến đầy lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút nguồn FDI thế hệ mới, là điểm đến tiềm năng trong quá trình dịch chuyển và tái cấu trúc chuỗi cung ứng và mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Do vậy, chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ từ ngày 7 đến 12/4 được kỳ vọng sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa, tạo động lực và xung lực mạnh mẽ cho sự phát triển quan hệ song phương.

Nguồn: Báo đầu tư

“Năm 2024 là thời điểm các doanh nghiệp có thể cân nhắc đến việc đầu tư dài hạn”

Năm 2023, cộng đồng DN phải đối mặt với không ít khó khăn. Các DN ngành giấy nói chung và Công ty TNHH Giấy Đồng Tiến nói riêng đã vượt qua như thế nào, thưa ông?

Những khó khăn, thách thức mà các DN gặp phải không chỉ riêng trong năm 2023 mà thực sự đã bắt đầu từ giữa năm 2022. Trong khoảng thời gian dịch bệnh Covid-19 bùng phát mạnh từ đầu năm 2020 đến giữa năm 2022, nền kinh tế Việt Nam và thế giới vẫn phát triển khá tốt, đặc biệt là với ngành giấy.

Ông Hoàng Trung Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Giấy Đồng Tiến

Thời điểm các DN ngành giấy thực sự khó khăn là từ tháng 5/2022 cho đến nay, khi Trung Quốc thực hiện phong tỏa nghiêm ngặt toàn quốc để phòng chống đại dịch Covid-19 khiến hoạt động giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc gần như bị đóng băng. Bên cạnh đó cuộc chiến Nga – Ukraine rồi tiếp theo là Israel – Hamas khiến lạm phát tăng cao, nhu cầu tiêu dùng xuống thấp, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang hai thị trường chính là Mỹ và châu Âu sụt giảm mạnh, trong đó có những ngành hàng sử dụng bao bì rất nhiều như: Đồ gỗ, vật liệu xây dựng, may mặc, giày dép, hàng điện tử, thủy hải sản,… Đồng thời, giấy Việt Nam xuất sang Trung Quốc cũng giảm cả về giá cả lẫn sản lượng khiến các nhà máy giấy chạy không đủ công suất, giá giấy thành phẩm phải giảm tối đa để có đơn hàng, trong khi giá nguyên liệu và năng lượng lại tăng đã đẩy các DN ngành giấy Việt Nam gần như không còn lợi nhuận, thậm chí một số DN thua lỗ phải tạm dừng hoạt động.

Trong bối cảnh chung như vậy, Đồng Tiến cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực. Cụ thể là so với năm 2022, năm 2023 sản lượng của Đồng Tiến vẫn tăng, nhưng doanh thu lại giảm do giá bán sản phẩm giảm tới gần 30%. Dù vậy, tôi cho rằng năm 2023 vẫn là năm khá thành công của Đồng Tiến bởi Công ty đã duy trì được hoạt động thường xuyên, tạo được việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.

Việc các DN duy trì được hoạt động trong lúc khó khăn thì cũng sẽ có cơ hội để bứt tốc khi thuận lợi, thưa ông?

Tôi hoàn toàn đồng ý. Các DN một khi đã đứng vững trong những thời khắc khó khăn thì hoàn toàn có thể tin tưởng vào tương lai tốt đẹp hơn, trước mắt là có cơ hội phát triển tốt hơn trong năm 2024.

Công ty Đồng Tiến, với những giá trị và năng lực cốt lõi, có đội ngũ gắn kết được hình thành, phát triển trong gần 30 năm qua và đang là đối tác chiến lược với Tetra Pak Việt Nam và Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam (PRO Việt Nam), tự hào là DN tiên phong và sẽ tiếp tục đóng vai trò tích cực trong hoạt động thu gom, tái chế vỏ hộp đồ uống giấy. Có thể nói, đây vừa là vai trò nhưng cũng là cơ hội phát triển của Đồng Tiến trong chuỗi kinh tế tuần hoàn, trong việc thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất theo quy định của Luật bảo vệ môi trường, có hiệu lực từ ngày 01/01/2024.

Được biết, thời gian qua ông đã dành nhiều tâm huyết cho Hiệp hội Giấy và Bột Giấy Việt Nam và đang tích cực góp phần để tái cơ cấu ngành giấy, ông nhận định như thế nào về những thách thức của ngành?

Đại hội toàn thể Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA) được tổ chức vào tháng 03/2023 vừa qua đã xác định 4 thách thức lớn đối với ngành giấy Việt Nam hiện nay. Bản thân tôi với vai trò Chủ tịch Hiệp hội cùng với các ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội đang rất nỗ lực để giải quyết các thách thức đó.

Thách thức đầu tiên, đó là sự bất cân đối trong đầu tư sản xuất. Như chúng ta biết, giấy bao bì thông thường chiếm khoảng 45 – 50% nhu cầu, còn lại là các loại giấy khác như giấy in, giấy viết, giấy vệ sinh, giấy báo,… Song ở Việt Nam hiện nay, đầu tư tập trung chủ yếu vào giấy bao bì (chiếm tới hơn 85% tổng năng lực sản xuất). Trong khi, hầu hết những loại giấy chất lượng cao và có giá trị cao thì Việt Nam chưa sản xuất được. Do đó, Hiệp hội đang kêu gọi các DN quan tâm đầu tư vào sản xuất các loại giấy này cũng như khuyến cáo cần hạn chế đầu tư vào sản xuất giấy bao bì.

Thách thức thứ hai là sự thiếu hụt và mất cân đối về nguồn nguyên liệu chính cho phát triển bền vững của ngành giấy, cụ thể là bột giấy và giấy thu hồi. Việt Nam đang là cường quốc xuất khẩu dăm gỗ (nguyên liệu thô để sản xuất bột giấy) với lượng xuất khẩu hàng năm lên tới 17 đến 18 triệu tấn nhưng lại đang phải nhập khẩu khoảng 400 ngàn tấn bột giấy và hàng triệu tấn giấy thu hồi (Recover paper) làm nguyên liệu sản xuất mỗi năm. Theo số liệu thống kê, năm 2023 Việt Nam nhập khẩu khoảng 2,8 triệu tấn và dự kiến từ năm 2025 sẽ phải nhập khẩu khoảng 5 đến 7 triệu tấn giấy thu hồi hàng năm làm nguyên liệu sản xuất giấy, trong khi nguồn xuất khẩu chính là từ châu Âu và Bắc Mỹ ngày càng hạn chế và có nguy cơ bị kiểm soát bởi các tập đoàn, công ty giấy lớn. Thêm vào đó, giấy thu hồi lại đang bị các cơ quan quản lý xem là “phế liệu” với nhiều hạn chế và các quy định kiểm soát phức tạp trong nhập khẩu. Hiệp hội đang kiến nghị Nhà nước cần xem giấy thu hồi là hàng hóa thông thường được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất như nhiều nước khác đã làm và có chính sách khuyến khích, ưu đãi về thuế đối với các hoạt động thu gom, tái chế giấy; đồng thời kêu gọi và khuyến khích các DN quan tâm đầu tư vào sản xuất bột giấy với thiết bị, công nghệ tiên tiến.

Thách thức tiếp theo là vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và công nghiệp phụ trợ cho ngành giấy. Việt Nam hiện vẫn rất thiếu các chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp có kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất giấy và bột giấy, đặc biệt là trong nghiên cứu, sản xuất các loại giấy chất lượng cao. Công nghiệp phụ trợ chưa theo kịp nhu cầu tăng trưởng nhanh của ngành giấy trong thời gian qua cũng là một hạn chế không nhỏ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của ngành.

Thách thức cuối cùng, đó là: Thực trạng hiện nay, ngành giấy đang bị coi là ngành công nghiệp có nguy cơ ô nhiễm cao, các địa phương nghe đến đầu tư sản xuất giấy và đặc biệt là bột giấy thì đều rất e dè, không khuyến khích và không có các chính sách hỗ trợ đầu tư cả về đất đai lẫn tài chính. Trong khi về bản chất, ngành giấy là ngành kinh tế xanh, phù hợp tự nhiên với kinh tế tuần hoàn do nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất bột giấy có thể tái tạo (dăm gỗ được sản xuất từ rừng trồng) và nếu xét góc độ phát thải khí nhà kính thì ngành giấy là ngành cân bằng tốt nhất bởi sự hấp thu khí nhà kính của rừng trồng nguyên liệu, năng lượng cho sản xuất chủ yếu từ nguồn nhiên liệu Biomas, tỷ lệ thu gom tái chế cao, sản phẩm giấy dễ phân hủy trong môi trường tự nhiên và với công nghệ xử lý hiện nay, nước thải từ quá trình sản xuất hoàn toàn đáp ứng tốt tiêu chuẩn xả thải. Chính vì thế, toàn thế giới đang khuyến khích sử dụng sản phẩm giấy thay thế hoàn toàn cho các sản phẩm nhựa dùng một lần.

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội, trong 10 năm qua tiêu dùng giấy tăng trung bình hơn 6%/năm, sản xuất tăng trung bình hơn 10%/năm và xu hướng tăng này vẫn tiếp tục ổn định trong 10 năm tới. Nếu giải quyết được các thách thức trên, chắc chắn ngành giấy Việt Nam sẽ phát triển nhanh, bền vững, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà.


Ông Hoàng Trung Sơn được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam nhiệm kỳ VII (2023 – 2028)

Ngành giấy Việt Nam nói chung đã có những bước phát triển rất tốt, nhưng nhiều ý kiến cho rằng “miếng bánh lớn” vẫn đang nằm trong tay các DN FDI?

Ở Việt Nam hiện có khoảng 500 DN sản xuất giấy nhưng chỉ có khoảng 20 DN có quy mô lớn. Trong đó, chỉ với 6 DN FDI đã chiếm sản lượng hơn một nửa năng lực sản xuất của toàn ngành. Toàn bộ các DN FDI được đầu tư dây chuyền sản xuất với thiết bị, công nghệ hiện đại, hệ thống quản trị tiên tiến và còn có thêm nhiều lợi thế vượt trội so với các DN Việt Nam. Tôi nghĩ rằng, muốn DN Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách với các DN FDI thì ngoài sự nỗ lực tự thân của các DN Việt Nam, rất cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phù hợp từ các cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam cũng đang có những thay đổi trong các hoạt động cũng như sinh hoạt của Hiệp hội như tổ chức cơ cấu lại bộ máy nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường trao đổi thông tin, giao lưu, hợp tác, gắn kết giữa các DN với nhau và với các DN FDI. Vừa qua, Hiệp hội đã tổ chức họp Ban Chấp hành mở rộng ở phía Nam có mời đại diện các DN FDI tham dự và kết quả đạt được trên cả mong đợi, các DN FDI rất nhiệt tình tham gia đóng góp ý kiến xây dựng và sẵn sàng hợp tác, hỗ trợ cùng với các DN Việt Nam. Nhờ đó, thông qua hiệp hội, các DN Việt Nam và các DN FDI có cơ hội kết nối, hợp tác, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giúp nhau cùng phát triển.

Qua thực tế cạnh tranh trên thị trường, chúng tôi nhận thấy rằng, các DN Việt Nam muốn tồn tại, phát triển thì phải quyết tâm đầu tư và quản trị doanh nghiệp như các DN FDI. Nghĩa là cũng phải đầu tư bài bản, chuyên nghiệp, xây dựng hệ thống quản trị và nhân lực tốt, thích nghi trong điều kiện mới. Nếu không thể đi một mình thì có thể cùng đi với các DN lớn bằng cách tham gia vào chuỗi cung ứng để cùng “win – win” chứ không phải cạnh tranh theo hướng triệt tiêu lẫn nhau.


Ông Hoàng Trung Sơn tại Đại hội Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam năm 2023

Ông có nhận định gì thêm và kỳ vọng gì trong năm 2024 này?

Tôi có niềm tin năm 2024 kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt hơn năm 2023. Dù các xung đột địa chính trị như cuộc chiến Nga – Ukraine, xung đột Israel – Hamas sẽ không sớm kết thúc, thậm chí có nguy cơ lan rộng, nhưng kinh tế thế giới cũng đang dần vượt qua giai đoạn khủng hoảng và thích nghi với tình hình mới, lạm phát đang có xu hướng giảm, kinh tế Mỹ và châu Âu (những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam) sớm hồi phục, phát triển giúp cho nhu cầu tiêu dùng tăng. Khi đó, các ngành truyền thống của nước ta như: Đồ gỗ, vật liệu xây dựng, may mặc, da giày, linh kiện điện tử, thủy hải sản,… sẽ có nhiều cơ hội hồi phục, phát triển trở lại, cùng với thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam tăng cao. Do đó, theo cá nhân tôi, đây cũng là thời điểm các DN nếu có điều kiện có thể cân nhắc đến việc đầu tư dài hạn.

Trân trọng cảm ơn ông!

Một số cột mốc quan trọng trong hành trình 30 năm phát triển của Đồng Tiến
1994: Thành lập bởi một nhóm kỹ sư chuyên ngành giấy (Đại học Bách khoa Hà Nội) có nhiệt huyết, yêu nghề và nhiều hoài bão với người dẫn đầu là ông Hoàng Trung Sơn, nay là Tổng Giám đốc Công ty.
2004: Xây dựng thêm nhà máy tái chế giấy mới tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương với dây chuyền máy móc thiết bị nhập khẩu.
2007: Tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền sản xuất thứ 2 tại nhà máy Bình Dương.
2011: Hợp tác với Công ty Tetra Pak Việt Nam, thành viên của Tập đoàn Tetra Pak – DN chuyên sản xuất bao bì giấy đựng đồ uống lớn nhất thế giới, đầu tư dây chuyền tái chế vỏ hộp sữa giấy đồng bộ đầu tiên, trở thành DN
tiên phong trong lĩnh vực thu gom, tái chế bao bì giấy đựng đồ uống tại Việt Nam.
2012: Tiếp tục lắp thêm dây chuyền sản xuất thứ 3 mua từ Hàn Quốc với hệ thống xử lý bột giấy tái chế đồng bộ, tự động hoàn toàn của hãng Andritz (Áo).
2017: Mua lại một nhà máy sản xuất giấy bao bì tại Long An, với sản lượng giai đoạn 1 là 20.000 tấn/năm.
2021: Mua bán sáp nhập (M&A) Công ty TNHH Giấy Vĩnh Cơ, chuyên sản xuất giấy Tissue tại Bình Dương. Qua đó, Đồng Tiến đã chính thức tham gia vào lĩnh vực sản xuất – kinh doanh giấy tiêu dùng.
Hiện Công ty đang tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm với tầm nhìn tiếp tục tiên phong trong lĩnh vực tái chế giấy đặc chủng và mục tiêu đến năm 2026 đạt tổng sản lượng 180.000 tấn/năm.

 

Trọng Trinh (Vietnam Business Forum) vccinews