Đông Hải Bến Tre (DHC) muốn huỷ kế hoạch chào bán cổ phiếu và ESOP

CTCP Đông Hải Bến Tre (Dohaco – Mã: DHC) vừa công bố tài liệu họp ĐHĐCĐ thường niên 2023, dự kiến diễn ra tại Bến Tre, vào ngày 26/6.

Năm nay, công ty đặt mục tiêu tổng doanh thu là 3.240 tỷ đồng, 300 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế giảm lần lượt 18%, 21% so với cùng kỳ. Mức chia cổ tức năm 2023 dự kiến là 20% bằng tiền mặt hoặc cổ phiếu, thấp hơn năm 2022 là 10%.

Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2023 của DHC. (Nguồn: Tài liệu ĐHĐCĐ thường niên 2023).

Ban lãnh đạo DHC cho rằng, nếu giá dầu và nguyên vật liệu còn tăng sẽ khiến công ty gặp nhiều áp lực, nhất là trong giai đoạn các dự án mở rộng công suất của doanh nghiệp cùng ngành có xu hướng gia tăng.

Vì thế, công ty đã đưa ra các giải pháp cụ thể cho từng ngành. Đối với giấy, DHC dự kiến tìm thêm các khách hàng mới, bán hàng gắn với thu hồi công nợ, không làm phát sinh nợ khó đòi, nợ xấu. Tăng cường phát triển thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu .

Về bao bì, DHC chủ trương khai thác và đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ các ngành hàng như thủy sản, sản xuất chế biến từ dừa, rau quả trái cây, thiết bị may mặc điện tử của các khách hàng ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.

Về kế hoạch đầu tư xây dựng, công ty sẽ tiến hành cải tạo hệ thống chất lượng giấy của nhà máy Giao Long; Triển khai lắp đặt Hệ thống điện mặt trời cho nhà máy; Triển khai đầu tư xây dựng Nhà máy giấy.

Về phương án phân phối lợi nhuận năm 2022, công ty đề xuất chia cổ tức năm 2022 bằng tiền, tỷ lệ 30%. Trước đó, công ty đã tạm ứng cổ tức với tỷ lệ 25%. Như vậy, cổ đông công ty sẽ nhận được thêm cổ tức với tỷ lệ 5%. Với hơn 80,4 triệu cổ phiếu đang lưu hành, DHC cần chi 40 tỷ đồng trả cổ tức.

Đề xuất huỷ phương án phát hành 69,9 triệu cổ phiếu

Ngoài ra, tại đại hội, DHC muốn xin ý kiến cổ đông về việc huỷ bỏ phương án phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn người lao động  (ESOP) và phương án chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu đã được ĐHĐCĐ thường niên 2022 thông qua.

Trước đó, công ty đề xuất phát hành 2,5 triệu cổ phiếu ESOP tương ứng với 3,57% trên lượng cổ phiếu đang lưu hànhGiá phát hành là 27.000 đồng/cp, thấp hơn 37% so với giá cổ phiếu DHC chốt phiên ngày 6/6 (42.900 đồng/cp).

Bên cạnh đó, DHC dự kiến chào bán hơn 6,9 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ thực hiện là 100:10 (cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ được mua 10 cổ phiếu mới). Giá chào bán là 27.000 đồng/cp.

Số tiền thu được từ 2 đợt phát hành cổ phiếu được DHC dự kiến dùng để bổ sung vốn lưu động, thanh toán tiền mua nguyên vật liệu sản xuất.

Lợi nhuận quý I giảm 27%

Về tình hình kinh doanh, ba tháng đầu năm, công ty ghi nhận 848 tỷ đồng doanh thu, 86 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế giảm lần lượt 18%, 27% so với cùng kỳ.

Tại ngày 31/3, tổng tài sản của DHC đạt 2.972 tỷ đồng, tăng nhẹ so với đầu năm. Khoản tiền, tương đương với tiền, tiền gửi có kỳ hạn khoảng 214 tỷ đồng. Hàng tồn kho tăng 18% lên 743 tỷ đồng.

Tổng nợ vay của công ty cuối quý I là 552 tỷ đồng, hoàn toàn là nợ vay ngắn hạn. Vốn chủ sở hữu khoảng 1.839 tỷ đồng, bao gồm 713 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế chưa phân phối.

Đông Hải Bến Tre được thành lập vào năm 2023, có trụ sở tại Bến Tre, hoạt động chính trong lĩnh vực sản xuất giấy. Công ty có 2 công ty con đều hoạt động trong lĩnh vực sản xuất giấy và 1 công ty liên kết chuyên về cung cấp dịch vụ khai thác cảng và vận chuyển.
Nguồn: https://vietnambiz.vn/

Palm Aalen PM 5 – Khoản đầu tư bền vững trong 50 năm tới

PM 5 của Palm Aalen do Valmet cung cấp có chiều rộng 10,9 m, công suất hàng năm 750.000 tấn và tốc độ thiết kế 2.000 m/phút. Nó được thiết kế để sản xuất giấy sóng định lượng thấp được làm từ 100% xơ sợi tái chế. Dây chuyền sản xuất bao gồm những cải tiến sản xuất giấy mới và cả hệ thống tự động hóa trên toàn nhà máy. Đây là một ví dụ điển hình về sản xuất giấy bìa giảm thiểu hiệu quả khí CO2. Dây chuyền sản xuất mới này thay thế ba nhà máy cũ tại nhà máy Aalen của Palm ở Đức.

 

Sẵn sàng cho những thay đổi trong tương lai

 “Chúng tôi luôn nỗ lực trong mọi việc để trở nên hiệu quả hơn, đem lại những giá trị bền vững trên thị trường. Nếu chúng tôi không phản ứng trước những yêu cầu mới, có lẽ chúng tôi sẽ nhanh chóng phá sản. Tôi thực sự tin rằng PM 5 sẽ tồn tại dài lâu và đem tới giá trị bền vững trong 50 năm tới” Tiến sĩ Wolfgang Palm, Chủ doanh nghiệp kiêm Giám đốc điều hành của Papierfabrik Palm cho biết.

“Hộp giấy sóng sẽ đóng vai trò quan trọng trong tương lai như một vật liệu đóng gói nếu như giảm được lượng khí thải CO2 trong quá trình sản xuất chúng. Giải pháp để hiện thực hóa điều này là giảm định lượng. Chúng tôi đã hợp tác chặt chẽ với Valmet để thiết kế một máy sản xuất giấy bìa có thể sản xuất các loại giấy bìa định lượng thấp hơn bất kỳ máy sản xuất giấy bìa nào khác trên thế giới,” Tiến sĩ Palm chia sẻ thêm.

Những đổi mới để sản xuất giấy bìa bền vững

 “PM 5 có nhiều cải tiến công nghệ, đã được thử nghiệm và chứng minh tại các xưởng thực nghiệm của Valmet ở Phần Lan. Điểm nhấn nổi bật là công nghệ Lô Tay áo Sleeve của Valmet trong bộ phận tạo hình, cho phép khả năng tách nước cao mà không cần sử dụng bất kỳ chân không nào. Chúng tôi đã đạt được mục tiêu về độ khô và sẽ ứng dụng lại công nghệ độc đáo này cho những dự án tiếp theo”. Stephan Gruber, Giám đốc điều hành và CTO của Papierfabrik Palm cho biết,

Chúng tôi hướng đến phát triển và cạnh tranh trên thị trường trong 50 năm tới bằng cách đầu tư nhà máy sản xuất giấy bìa với khổ máy lớn và sản lượng cao để sẵn sàng cho những thay đổi trong tương lai. Chúng tôi lựa chọn Valmet bởi những công nghệ cao cấp và khác biệt của họ dành cho các loại giấy có định lượng thấp. Khái niệm này đã được xác minh tại các xưởng thực nghiệm”. Tiến sĩ Wolfgang Palm, chủ sở hữu và Giám đốc điều hành của Papierfabrik Palm, cho biết

Ông ấy chia sẻ thêm: “Chúng tôi đã chọn công nghệ ép 3-nip với hệ thống dây đai Chuyển đổi để loại bỏ lực kéo mở từ bộ phận ép sang bộ phận sấy khô với độ khô lí tưởng. Điều này đã chứng tỏ sự kết hợp tuyệt vời với máy sấy OptiDry Twin, giúp tăng độ khô và nhiệt độ của tờ giấy trước khi bước vào phần sấy. OptiDry Twin cho phép mức độ thấp của bụi bẩn tại lô sấy đầu và đảm bảo khả năng chạy máy của các bộ phần tại phần sấy khô luôn sạch sẽ tuyệt đối. Không có các chất keo dính hoặc bụi ở bộ phận sấy đầu. Trong quy trình làm khô, tác động của thiết kế hình học nhỏ gọn và đáng tin cậy của hệ thống chạy máy Hirun Compact của Valmet hoạt động ổn định và cải thiện hiệu quả hơn cả khả năng chạy máy và độ sạch. Chúng tôi tin rằng việc lựa chọn những đổi mới này là một quyết định đúng đắn.”

PM 5 có công nghệ gia keo bề mặt cứng OptiSizer mới để cải thiện khả năng chạy máy, đồng thời có đặc tính độ bền cao hơn, làm sạch tinh bột hồi lưu trong quy trình và tiết kiệm chi phí vận hành hơn so với gia keo màng phim thông thường. “Gia keo bằng lô gia keo cứng đang hoạt động rất tốt, với khả năng chạy máy tuyệt vời. Đây là giải pháp phù hợp để sản xuất định lượng thấp với sức kéo thấp, độ ổn định tờ giấy cao và tiết kiệm tiêu thụ tinh bột. Bởi vì ứng dụng gia keo phun không tiếp xúc nên tinh bột hồi lưu không bao giờ tiếp xúc với xơ sợi”. Gruber cho biết.

“Bộ phận cuộn và cắt cuộn được sắp xếp hợp lý và tự động hóa cao, đồng thời di chuyển các lô cuộn được giảm thiểu, giúp người vận hành dễ dàng sử dụng. Từ đó, bộ phận cắt cuộn giống như một con rô bốt hoạt động ngày càng tốt hơn và sẽ không có bất kỳ vấn đề nào về chất lượng với các cuộn đã hoàn thành”. Gruber giải thích.

Palm PM 5 – một minh chứng về quy trình sản xuất giấy bìa giảm phát thải khí CO2 một cách hiệu quả

Valmet cung cấp một số công nghệ cho phép sản xuất các sản phẩm giấy bìa nhẹ hơn mà không ảnh hưởng đến đặc tính về chất lượng hoặc hình ảnh sản phẩm. Điều này đạt được nhờ định lượng thấp, cho phép các nhà sản xuất giấy bìa và bao bì tối ưu hóa việc sử dụng nguyên liệu thô, chất lượng giấy bìa và năng lực sản xuất. Lợi ích của định lượng thấp đạt hiệu quả đến tất cả chuỗi giá trị: Các nhà sản xuất bao bì cần tiết kiệm giấy bìa hơn cho sản phẩm của họ; vận chuyển các sản phẩm nhẹ hơn làm giảm tác động môi trường; tiết kiệm năng lượng hơn ở mọi giai đoạn; và giảm chất thải tạo ra nhờ sự tái chế.

PM 5 là máy sản xuất giấy sóng lớn nhất thế giới, với công suất 750.000 tấn/năm.

PM 5 của Palm tạo ra giấy bìa siêu nhẹ với định lượng giảm xuống tới 60 g/m2, điều này có nghĩa là giảm ít nhất 15% nguyên liệu thô, với hiệu suất tương đương. Ngoài ra, OCC-một loại nguyên liệu thô tái chế 100% góp phần bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.

PM 5 thay thế ba máy sản xuất cũ và được trang bị các giải pháp công nghệ tiết kiệm năng lượng mới nhất, cho phép tiết kiệm năng lượng đáng kể. Các lợi ích khác về môi trường đạt được thông qua tự động hóa trên toàn nhà máy, giúp cải thiện hiệu suất quy trình đồng thời tiết kiệm được xơ sợi, hóa chất và năng lượng.

Tự động hóa là nền tảng phát triển cho toàn bộ nhà máy

Hệ thống điều khiển phân tán (DCS), hệ thống kiểm soát chất lượng (QCS), hệ thống điều khiển máy (MCS), máy phân tích và phép đo đã giúp cho PM 5 cải thiện hiệu suất quy trình và đạt được mức tiết kiệm xơ sợi, hóa chất và năng lượng.

Tiến sĩ của Palm cho biết: “Chúng tôi đã có những trải nghiệm rất tốt với Hệ thống Tự động hóa DNA của Valmet, được sử dụng trên toàn hệ thống từ nhà máy điện và hệ thống xử lý nước thải cho đến hệ thống chuẩn bị bột, máy giấy cho đến bộ phận cắt cuộn. Điều này đem lại lợi ích rõ ràng cho cả người vận hành và bảo trì khi sử dụng hệ thống tự động hóa toàn nhà máy từ một nhà cung cấp. Hệ thống của Valmet rất đáng tin cậy và không có vấn đề gì xảy ra khi khởi động.” Gruber cho biết thêm.

Củng cố hiệu suất dây chuyền sản xuất bằng các giải pháp Internet công nghiệp mới nhất

 PM 5 đã được khởi động trong thời gian đại dich Covid-19 bùng nổ. Các ứng dụng Internet công nghiệp dựa trên dữ liệu của Valmet với sự hỗ trợ của các kết nối từ xa đã mang đến giá trị cao để hoàn thành dự án này. “Các ứng dụng Internet công nghiệp giúp ích rất nhiều cho chúng tôi, vì các chuyên gia của Valmet có thể kết nối rất nhanh với quy trình của chúng tôi trực tiếp từ Phần Lan. Các giải pháp Internet công nghiệp ngày càng thân thiện với chúng tôi – ví dụ như trong sự bền vững trong việc phát triển với các chuyên gia của Valmet”. Gruber cho biết

“Chất lượng sản phẩm nhập kho đã chứng minh cho lựa chọn giải pháp đúng đắn của chúng tôi. Tờ giấy đầu tiên được sản xuất ngay sau khi vận hành đã có thể bán được mà không lãng phí. PM 5 có khả năng vận hành vượt trội kết hợp với khả năng xử lý nhanh đáng chú ý với công nghệ máy móc của Valmet. Stephan Gruber, Giám đốc điều hành và CTO của Papierfabrik Palm, cho biết.

 “Chúng tôi đã hợp tác chặt chẽ với Valmet để thiết kế một máy sản xuất giấy bìa có thể sản xuất các loại giấy bìa định lượng thấp hơn bất kỳ máy sản xuất giấy bìa nào khác trên thế giới”

Vật liệu đóng gói chất lượng cao siêu nhẹ với chi phí vận hành thấp

 Thị trường giấy bìa tái chế đang có triển vọng tốt, đặc biệt là do tính bền vững có thể tái tạo và tái chế của nó. Sản xuất giấy bìa mang lại hiệu quả cao và có lợi thế về tính bền vững. Sản xuất các loại bao bì với định lượng thấp trong khi vẫn duy trì độ bền cao và đặc tính in xuất sắc luôn là một thách thức đối với các nhà sản xuất giấy bìa. Nhờ các chuyên gia và các giải pháp phù hợp đến từ Valmet, Palm đã chinh phục được thử thách này.

Tiến sĩ của Palm chia sẻ: “Nếu bạn sản xuất giấy bìa siêu nhẹ, bạn phải đạt được hai điều: bạn cần sản xuất hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Điều này có nghĩa là bạn phải tăng tốc độ của máy sản xuất giấy hơn nữa. Mục tiêu của chúng tôi chỉ đơn giản là sở hữu chiếc máy làm giấy bìa chạy nhanh nhất trên thế giới. Chúng tôi nhận thấy nhu cầu mạnh mẽ đối với giấy bìa siêu nhẹ và nó sẽ còn lớn hơn nhiều so với dự đoán của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi tin rằng chiến lược sản xuất giấy bìa siêu nhẹ của chúng tôi thực sự là một thành công lớn.”

Chúng tôi sản xuất các loại giấy bìa siêu nhẹ chất lượng cao cho các mục đích đóng gói, đồng nghĩa với việc chúng tôi phải đảm bảo các đặc tính độ bền như nhau và diện tích lớn hơn trong một cuộn so với các loại giấy bìa thông thường. Ví dụ, toàn bộ chuỗi giá trị bắt đầu từ máy sản xuất PM5 và kết thúc ở các hộ gia đình thông qua thương mại điện tử. Điều này giúp cho chuỗi cung ứng bền vững hơn nhiều”. Gruber giải thích

Phát triển mạnh mẽ: Hơn 1.000 máy cắt cuộn và 50 hệ thống không cuộn kép (Dual Unwind Systems)

Từ lâu, Valmet đã sản xuất và phát triển máy cắt cuộn. Họ đã cung cấp hơn 1.000 máy cắt cuộn và 50 hệ thống không cuộn kép, và không ngừng cải tiến để hoàn thiện chúng. Máy cắt cuộn thứ 1.000 được giao cho Papierfabrik Palm PM 5 đã minh chứng cho tất cả các tính năng tuyệt vời mà nó mang lại.

Palm đánh giá cao máy cắt cuộn của họ: “Đối với chúng tôi, nó không chỉ là một chiếc máy cắt cuộn – nó còn là một robot quản lý tất cả giấy từ PM5 và tạo ra lợi nhuận cao đồng thời giúp giảm chi phí nhân sự, bởi vì chúng tôi chỉ cần hai người vận hành máy cắt cuộn” Gruber tiếp tục.

Hai tính năng chính của máy cắt cuộn tại Aalen để đạt được xuất lượng cao là Internet công nghiệp Valmet (VII) và hệ thống không cuộn kép,” Gruber nói. Valmet đã phát triển hệ thống không cuộn kép hơn 10 năm trước với ý tưởng sử dụng 2 hệ thống không cuộn kép tại một máy cắt cuộn. Sự đổi mới đã giảm thời gian thay đổi cuộn mẹ từ 6-10 phút xuống còn 01 phút, cải thiện công suất cắt cuộn lên tới 50%. Valmet cung cấp cho hơn 50 khách hàng để trải nghiệm giá trị tối ưu của hệ thống không cuộn kép của họ”.

VII cung cấp các cơ hội hoàn toàn mới để tối ưu hóa sản xuất và bảo trì máy cắt cuộn. Ví dụ: nó có thể cung cấp thông tin kỹ thuật chi tiết về hiệu suất cắt cuộn dây, với các phân tích dựa trên dữ liệu để tránh các điểm dừng ngoài kế hoạch và tăng chất lượng sản phẩm.

Tự động hóa luôn là góp phần quan trọng trong việc cải thiện năng suất cắt cuộn, khả năng sử dụng và chất lượng cuộn. Khi được kết hợp với bộ phận cuộn và đường ray chuyển đổi tự động, toàn bộ quy trình cuộn và cắt cuộn có thể được vận hành với số lượng nhân công tối thiểu một cách an toàn và hiệu quả, đồng thời tăng sản lượng sản xuất. Máy cắt cuộn tại Aalen được trang bị hệ thống tự động hóa Valmet DNA để tối đa hóa hiệu suất.

Mặc dù đã sản xuất 1000 máy cắt cuộn tuy nhiên Valmet luôn không ngừng cải tiến những sản phẩm, công nghệ của họ. Hai máy cắt cuộn thử nghiệm của Valmet được sử dụng để liên tục phát triển các cải tiến mới. Và văn hóa đổi mới sẽ thúc đẩy Valmet tạo ra các giải pháp tốt hơn nữa cho bạn trong tương lai!

 Dịch bởi kỹ sư ATZ Solutions – Đại diện của Valmet tại Việt Nam –  VPPA Tổng hợp

Giấy Hoàng Hà Hải Phòng đặt mục tiêu kinh doanh tích cực năm 2023

Công ty CP Giấy Hoàng Hà Hải Phòng (HHP/HoSE) vừa công bố tài liệu họp Đại hội đồng cổ đông thường niên, dự kiến tổ chức vào ngày 23/6/2023. Năm 2023, HHP đặt kế hoạch tăng trưởng 22,3% về doanh thu.

Theo kế hoạch, Giấy Hoàng Hà Hải Phòng dự định đạt tổng doanh thu hợp nhất là 1.157 tỷ đồng trong năm 2023, tăng 22,3% so với mức thực hiện năm trước. Lợi nhuận sau thuế được dự kiến đạt 39 tỷ đồng, tăng 6,67% so với kết quả đạt được trong năm 2021.

Trong năm 2022, doanh thu hợp nhất của công ty đã đạt 945,34 tỷ đồng, tăng 19,45% so với năm 2021 và hoàn thành 98,88% kế hoạch đề ra. Phân bổ doanh thu cho thấy, hoạt động thương mại (doanh thu từ bán hàng hóa) chiếm 72,20% tổng doanh thu, trong khi hoạt động sản xuất (doanh thu từ bán thành phẩm) chiếm 27,66%. Doanh thu từ các hoạt động khác, bao gồm khai thác cơ sở hạ tầng và thu phí điện, nước, chỉ chiếm 0,14%.

Lợi nhuận sau thuế của công ty sau hợp nhất trong năm 2022 đạt 36,56 tỷ đồng, tăng 7,78% so với năm trước. Công ty cho biết, tăng trưởng lợi nhuận trong năm 2022 được đạt nhờ định hướng đúng đắn, tập trung phát triển sản phẩm chủ lực là giấy Kraft, đồng thời tăng cường hoạt động thương mại, tăng trưởng doanh thu và tiết giảm chi phí gián tiếp.

Theo HHP, thị trường giấy bao bì tại Việt Nam có tiềm năng lớn do bao bì giấy đóng vai trò quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp. Hiện tại, bao bì giấy chiếm gần 50% tổng tiêu thụ ngành giấy và 45% tổng kim ngạch nhập khẩu giấy. Các ngành công nghiệp thực phẩm, hóa mỹ phẩm, hàng tiêu dùng, điện tử, da giày và thủy sản là những ngành chủ yếu sử dụng giấy bao bì.

Theo Hiệp hội Giấy và Bột giấy, Việt Nam tiêu thụ khoảng 3,5 triệu tấn giấy mỗi năm, trong đó giấy in chiếm 350.000 tấn, giấy bao bì chiếm 2,5 triệu tấn và tissue chiếm 195.000 tấn, còn lại là các loại giấy khác. Dự báo nhu cầu cho giấy bao bì có thể tăng lên đến 10 triệu tấn vào năm 2025. Dự kiến trong nửa cuối năm 2023, giá các mặt hàng giấy, đặc biệt là giấy bao bì, giấy phế liệu và bột giấy, sẽ có tiềm năng tăng cao.

Trước khi Đại hội đồng cổ đông thường niên HHP diễn ra, ông Nguyễn Huy Long, thành viên HĐQT, đã nộp đơn xin từ nhiệm.

Kết thúc quý I/2023, công ty ghi nhận doanh thu đạt 239 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt hơn 9,6 tỷ đồng, tăng nhẹ về doanh thu (8,6%) và gần như đi ngang về lợi nhuận so với cùng kỳ năm trước. Công ty cho biết, trong ba tháng đầu năm, doanh thu tăng nhẹ nhưng vẫn đạt lợi nhuận tốt nhờ việc chủ động tiết chế và giảm một số chi phí gián tiếp.

P.V (t/h)

Thủ tướng chỉ đạo khẩn về cung ứng điện: Xử lý dứt điểm các dự án NLTT đã đầu tư xây dựng nhưng không kịp hưởng giá FIT ngay trong tháng này

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 517/CĐ-TTg ngày 6/6/2023 về việc thực hiện các giải pháp bảo đảm cung ứng điện mùa khô năm 2023 và thời gian tới.

Công điện gửi Bộ trưởng Bộ Công Thương; Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chủ tịch, tổng giám đốc các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Dầu Khí Việt Nam, Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, nêu rõ:

Công điện nêu rõ, tình hình nắng nóng gay gắt và tác động của hiện tượng El Nino diễn ra tại nhiều nơi trong cả nước thời gian quan đã làm tăng nhu cầu điện sinh hoạt của nhân dân, kết hợp với tình trạng thiếu mưa ở các tỉnh phía Bắc nên nước về các hồ thủy điện rất thấp đã gây ảnh hưởng rất lớn đến cung ứng điện trong mùa khô năm 2023.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo bằng nhiều hình thức từ sớm, từ xa về việc bảo đảm cung ứng điện mùa khô năm 2023, trong đó yêu cầu tuyệt đối không để xảy ra thiếu điện cũng như lưu ý các giải pháp cụ thể khắc phục các khó khăn về cung ứng điện thời gian qua, trong đó có Thông báo số 185/TB-VPCP ngày 19 tháng 5 năm 2023.

Mặc dù, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản (TKV) và các bộ, cơ quan có liên quan đã nỗ lực thực hiện một số giải pháp cấp bách nhưng đến nay đã xuất hiện những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm cung ứng đủ điện trong thời gian tới, đặc biệt là ở miền Bắc. Trước tình hình khó khăn về cung ứng điện hiện nay, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:

1. Bộ Công Thương:

– Rà soát, đánh giá kỹ về tình hình cung ứng điện hiện nay, nhất là các yếu tố phát sinh ảnh hưởng đến việc bảo đảm cung ứng điện để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, khẩn trương hướng dẫn EVN xây dựng các kịch bản chủ động kịp thời ứng phó với những khó khăn về cung ứng điện và tổ chức thực hiện theo quy định. Hoàn thành việc này trước ngày 10 tháng 6 năm 2023.

– Khẩn trương hoàn thiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường tiết kiệm điện trong giai đoạn 2023 – 2025 và các năm tiếp theo, theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, trong đó tập trung các giải pháp thiết thực, hiệu quả trong giai đoạn khó khăn về cung ứng điện hiện nay, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành trước ngày 08 tháng 6 năm 2023.

– Khẩn trương hoàn thiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đảm bảo cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện trong thời gian tới theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 8230/VPCP-CN ngày 07 tháng 12 năm 2022, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15 tháng 6 năm 2023.

– Rà soát quy định của pháp luật về điện lực để có hướng dẫn về đầu tư lưới điện truyền tải theo quy hoạch phát triển điện lực được duyệt, trong đó đẩy mạnh đầu tư theo hình thức hợp tác công tư trong quá trình xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII.

– Khẩn trương điều chỉnh việc quản lý, chỉ đạo Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia về Bộ Công Thương theo quy định của Đảng và Nhà nước trong tháng 6 năm 2023 và nghiên cứu thực hiện các chính sách phù hợp, hiệu quả.

2. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi thẩm quyền và quy định của pháp luật chỉ đạo các Tập đoàn EVN, PVN, TKV phối hợp chặt chẽ, hiệu quả thực hiện các giải pháp bảo đảm cung ứng điện mùa khô năm 2023 và thời gian tiếp theo; kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền.

3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam:

– Tập trung huy động hiệu quả mọi nguồn lực, nỗ lực cao nhất trong chỉ đạo điều hành thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp bảo đảm cung ứng điện; tổ chức thực hiện nghiêm theo quy định và theo các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Công Thương về vấn đề này.

– Chủ động xây dựng các kịch bản linh hoạt ứng phó với những khó khăn về cung ứng điện và theo hướng dẫn của Bộ Công Thương; đồng thời, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện theo quy định.

– Khẩn trương chỉ đạo và trực tiếp tháo gỡ khắc phục sự cố các nhà máy điện, nhất là các nhà máy điện tại miền Bắc để đưa vào vận hành trong thời gian sớm nhất.

– Tập trung cao độ thực hiện hiệu quả các giải pháp về tăng cường tiết kiệm điện, đặc biệt trong tháng 6 năm 2023.

4. Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản, Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam cung cấp đủ than, khí cho các nhà máy điện theo đề nghị của EVN; phối hợp chặt chẽ với EVN trong thực hiện các giải pháp bảo đảm cung ứng điện trong thời gian tới; khẩn trương chỉ đạo khắc phục ngay sự cố các nhà máy điện thuộc thẩm quyền, sớm đưa vào vận hành trong tháng 6 năm 2023.

5. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp chặt chẽ với EVN, các tổng công ty/công ty điện lực trong thực hiện công tác tiết kiệm điện tại địa phương đạt hiệu quả cao nhất và thực hiện các kịch bản ứng phó với những khó khăn về cung ứng điện trong thời gian tới.

6. Giao Bộ trưởng Bộ Công Thương chỉ đạo thành lập đoàn thanh tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật về quản lý và cung ứng điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 đến ngày 01 tháng 06 năm 2023.

Nguồn: Nhịp sống thị trường

“Lạm phát có 3,15% mà lãi suất huy động đến 9% thì quá vô lý”

Chiều 5/6, thảo luận tại tổ về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, từ trước đến nay, đóng góp của hệ thống các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại rất lớn. Song, khi thảo luận về dự án Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi cần thẳng thắn đặt ra các vấn đề như tái cơ cấu, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém.

Theo Chủ tịch Quốc hội, đối với dự án Luật Các tổ chức tín dụng, Nghị quyết Trung ương lần này cũng đã nhấn mạnh phải chấm dứt sở hữu chéo; chấm dứt chứ không phải hạn chế.

Bên cạnh đó, cần phải công khai những chủ sở hữu có vốn sở hữu tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, để người dân biết ai là người thực sự chi phối ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng đó.

Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng, Việt Nam chưa có luật về tập đoàn tài chính, trong khi đó, trên thực tế đã bắt đầu hình thành các mô hình tổ chức tập đoàn tài chính; hoặc công ty mẹ – con, trong đó, công ty mẹ là một tổ chức tín dụng; hoặc một tập đoàn, song trong tập đoàn đó có tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại (là thành viên trong hệ sinh thái của tập đoàn).

“Điều này cần được làm rõ quan hệ giữa doanh nghiệp, tập đoàn với các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại như thế nào; báo cáo tài chính hợp nhất, nghĩa vụ công bố thông tin ra sao”, Chủ tịch Quốc hội cho hay.

Đối với nội dung về 2 ngân hàng chính sách được quy định trong dự án luật, Chủ tịch Vương Đình Huệ cho rằng – cần phải thiết kế một chương, quy định cụ thể một số điều có tính nguyên tắc, là cơ sở để giao Chính phủ quy định một số vấn đề chi tiết hơn.

“Mỗi ngân hàng chính sách đều có một Nghị định của Chính phủ. Sau này nếu có điều kiện thì tách ra, tách ra thành Luật về Các ngân hàng chính sách xã hội”, ông nói và cho biết, trong Điều 136 dự án Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi có đề cập nội dung về tài chính của các tổ chức tín dụng, nhưng quy định chỉ vài dòng.

“Điều này là không được! Cần quy định cụ thể hơn như doanh thu, chi phí tài chính ra sao, phần nào là doanh thu hợp lý, phần nào không hợp lý, trích lập dự phòng thế nào, tất cả phải tường minh cho xã hội khỏi thắc mắc”, Chủ tịch Quốc hội nói.

Cũng theo Chủ tịch Vương Đình Huệ, hiện nay, ngân hàng đã nỗ lực hết sức với nền kinh tế. Vừa rồi, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giảm 3 lần lãi suất điều hành, Phó Thống đốc Ngân hàng cũng nói “còn có thể giảm được nữa”.

Chủ tịch Quốc hội cũng đặt vấn đề, lạm phát năm 2022 chỉ tăng 3,15% so với năm 2021 nhưng lãi suất huy động đến 9% thì quá vô lý.

Do vậy, muốn giải đáp những câu hỏi như thế này cần phải quy định ngay trong dự án Luật Các tổ chức tín dụng. Những nội dung nào cần chi tiết hơn nữa thì quy định bằng nghị định.

“Nhìn vào một ngân hàng sẽ thấy bóng dáng của một doanh nghiệp phía sau”

Cũng phát biểu tại tổ, đại biểu Nguyễn Hải Nam (đoàn Thừa Thiên – Huế) nhấn mạnh tình trạng việc sở hữu chéo giữa ngân hàng và các công ty tài chính, thậm chí có sự “lách luật” cả tỉ lệ sở hữu, lách cả hạn mức tín dụng cho một đối tượng doanh nghiệp.

Vị đại biểu cho rằng, cần đánh giá rõ thực trạng sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng để xác định rõ mức độ, nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo để đề xuất giải pháp căn cơ, triệt để và xử lý được tình trạng sở hữu chéo như hiện nay.

“Sở hữu chéo trong ngân hàng chính là lực cản trong năng lực cạnh tranh của các ngân hàng, cũng như lực cản đối với sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng”, ông Nam nói và nhấn mạnh, cần biện pháp xử lý rõ hơn với tình trạng này.

“Trên thị trường ngân hàng Việt Nam, cứ nhìn vào một ngân hàng thì sẽ thấy bóng dáng của một doanh nghiệp phía sau mà những doanh nghiệp này đều hoạt động trong lĩnh vực bất động sản”, ông Nam nói thêm.

Từ đó, để hạn chế sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng, đại biểu Nguyễn Hải Nam cho rằng, cần tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan thanh tra giám sát trong lĩnh vực ngân hàng.

Lạm phát có 3,15% mà lãi suất huy động đến 9% thì quá vô lý - Ảnh 2.

Đại biểu Nguyễn Hải Nam (đoàn Thừa Thiên – Huế)

Cũng về nội dung này, đại biểu Hà Sỹ Đồng (Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị)  cho rằng, sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro hệ thống, do làm gia tăng một số rủi ro chính.

“Điều này khiến vốn toàn hệ thống không gia tăng thực mà chỉ tăng trên sổ sách, kéo theo hệ lụy làm sai lệch về quản trị ngân hàng cũng như việc đánh giá rủi ro, trích lập dự phòng hay giám sát các hoạt động tài chính”, ông Đồng phân tích.

Trong báo cáo thẩm tra Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Ủy ban Kinh tế đã đề nghị đánh giá rõ thực trạng sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng để xác định rõ mức độ, nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo để đề xuất giải pháp căn cơ, triệt để và xử lý được tình trạng sở hữu chéo hiện nay. Đồng thời, bổ sung đánh giá tác động của các quy định đối với các cổ đông hiện hữu, nhất là cổ đông chiến lược nước ngoài sẽ phải giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi luật có hiệu lực; tác động đến thị trường chứng khoán.
Nguồn: VTV

Lãi suất giảm mạnh, tín dụng khó tăng

5 tháng đầu năm, tín dụng mới chỉ tăng khoảng 3,17%

Trao đổi về vấn đề tăng trưởng tín dụng từ đầu năm 2023 đến nay tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ chiều 3/6, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Phạm Thanh Hà cho biết, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay khoảng 14-15% và đã phân bổ phù hợp cho từng tổ chức tín dụng.

Đến hết tháng 5/2023, tín dụng nền kinh tế đạt khoảng 12,3 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 3,17% so với cuối năm 2022. Trong đó, các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm thị phần khoảng 44% thị phần tín dụng, tăng trưởng khoảng 35% so với mức mà NHNN đã giao. Nhóm ngân hàng thương mại cổ phần chiếm khoảng 44% thị phần, tăng khoảng một nửa so với được giao. Do đó, có rất nhiều dư địa tăng trưởng trong thời gian còn lại của năm.

Nhìn lại thời điểm cùng kỳ, đến hết tháng 5/2022, tín dụng tăng trưởng 8% so với cuối năm 2021. Trong điều kiện điều hành chính sách tín dụng của NHNN không đổi, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 2022 14%, năm nay nhích hơn một chút mà tín dụng tăng như thế thì cho thấy, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu hơn đáng kể so với năm ngoái.

Theo ông Hà, có 3 nguyên nhân chính, đó là doanh nghiệp sản xuất khó khăn về đầu ra, tiêu thụ sản phẩm khó khăn; doanh nghiệp nhỏ và vừa đa phần có tình hình tài chính suy yếu, không có phương án khả thi dẫn đến chưa đáp ứng yêu cầu để vay vốn ngân hàng. Thứ ba là doanh nghiệp bất động sản, nhiều dự án gặp khó khăn về pháp lý, ít dự án triển khai nên nhu cầu tín dụng đối với bất động sản giảm sút.

Từ các nguyên nhân này, Phó thống đốc nêu một số giải pháp, trong đó NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng, ngân hàng giảm lãi suất cho vay. Sau nhiều động thái của NHNN, từ tháng 3 đến tháng 5, mặt bằng lãi suất đã giảm, lãi suất cho vay mới bình quân là 9,07%, giảm 0,9% so với năm ngoái. Với số liệu này, mặt bằng lãi suất sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

Với các khoản dư nợ hiện hữu, do khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ nên NHNN đã ban hành Thông tư 02 cho phép cơ cấu lại nợ và giữ nguyên nhóm nợ. NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo triển khai quyết liệt chính sách này để hỗ trợ cho các dư nợ đã có với doanh nghiệp. Với dư nợ mới, các ngân hàng sẽ tích cực cho vay nếu đủ điều kiện.

Bên cạnh đó, theo ông Phạm Thanh Hà, các bộ ngành cần tiếp tục đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển DNNVV, hỗ trợ tìm kiếm tháo gỡ khó khăn thị trường tiêu thụ, thị trường bất động sản, tháo gỡ khó khăn, nâng cao năng lực tài chính, khả năng tiếp cận tín dụng…

Giảm lãi suất không quan trọng bằng doanh nghiệp tiếp cận được vốn

Quốc hội vừa qua 2 ngày thảo luận toàn thể về kinh tế, xã hội, ngân sách tại Kỳ họp thứ năm.

Ngay từ khi Quốc hội chưa khai mạc kỳ họp này, ở các phiên thẩm tra của các cơ quan Quốc hội, phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khó khăn của nền kinh tế nói chung, khu vực doanh nghiệp nói riêng đã được đặc biệt quan tâm.

Tổng hợp ý kiến của 19 tổ thảo luận về kinh tế, ngân sách, ông Bùi Văn Cường, Tổng thư ký Quốc hội, phản ánh ý kiến đại biểu cho rằng, trong khi đang phải đối mặt với nhiều khó khăn ở thị trường, đơn hàng, thì doanh nghiệp vẫn rất khó tiếp cận vốn do thủ tục vay vốn phức tạp và nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu thêm phí hoặc gợi ý mua bảo hiểm. Nghịch lý ở chỗ, trong bối cảnh đó, ngân hàng vẫn đạt lợi nhuận rất cao.

“Trong bối cảnh lạm phát ổn định, mà lãi suất ngân hàng tăng rất cao là điều bất hợp lý”, Ủy viên Thường trực Ủy ban tài chính – Ngân sách Trần Văn Lâm nhận xét.

Điều bất hợp lý nữa, theo đại biểu Lâm là, doanh nghiệp khó khăn như thế, nhưng các ngân hàng vẫn báo lãi rất khủng khiếp.

Đáng chú ý là, kết quả giám sát nguồn lực huy động trong phòng, chống Covid-19 chỉ ra, trong thời gian dịch dã, lãi suất cho vay giảm, nhưng giảm chậm hơn lãi suất đi vay. “Tức là ngân hàng ăn dày hơn. Ăn dày hơn thì ăn vào đâu? Vào lãi suất tiết kiệm của người dân, vào chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra khi đi vay. Tức là, nền kinh tế càng khó khăn, ngân hàng không chia sẻ, không hỗ trợ được nhiều lại còn tranh thủ vào đấy”, đại biểu Lâm thể hiện sự bức xúc.

Từ đó, ông Lâm đề nghị chính sách tiền tệ tới đây cần phải hướng tới để ngân hàng gắn kết lợi ích của mình thực sự với nền kinh tế, với sự sống còn của doanh nghiệp, chứ không phải chỉ độc quyền “một mình một chợ”.

Nghịch lý trên tiếp tục được mổ xẻ tại phiên thảo luận toàn thể. Đại biểu Điểu Huỳnh Sang (Bình Phước) cho rằng, việc quá chú trọng về kiềm chế lạm phát, nhưng lại chưa đánh giá kỹ tác động cũng là nguyên nhân khiến lãi suất tăng cao trong bối cảnh doanh nghiệp còn khó khăn.

Bên cạnh đó, việc điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng được thực hiện quá chậm cũng là những bất cập trong công tác điều hành.

“Nền kinh tế trong tình trạng thiếu thanh khoản, trong khi số vốn đầu tư công chậm giải ngân tồn đọng gửi tại Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại. Tổng phương tiện thanh toán tăng thấp, lạm phát thấp, lãi suất cao là những nghịch lý thể hiện sự bất cập trong công tác điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ”, vị đại biểu Bình Phước thẳng thắn.

Ủy viên chuyên trách Ủy ban Quốc phòng An ninh, đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng  Nai) cũng nhấn mạnh là, doanh nghiệp đang rất khát vốn tín dụng, nhưng không tiếp cận  được vốn, nếu có tiếp cận được thì rất khó để giải ngân do điều kiện vay và thủ tục.

“Tôi đánh giá cao trách nhiệm của Chính phủ khi phải dùng cả mệnh lệnh hành chính để yêu cầu giảm lãi suất (mặc dù vẫn còn cao), tuy nhiên, việc giảm lãi suất không quan trọng bằng tiếp cận được vốn và đưa nguồn vốn đó vào sản xuất, kinh doanh. Việc giảm lãi suất và đơn giản điều kiện, thủ tục vay cần thực chất để vốn đến đúng, trúng và trực tiếp đến với doanh nghiệp”, ông An thẳng thắn.

Cùng quan điểm, đại biểu Tô Ái Vang (Sóc Trăng) khẳng định, hiện nay, doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận với vốn vay.

Một trong các nguyên nhân, theo đại biểu là, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn vay, vì không còn tài sản đảm bảo hoặc tình hình tài chính yếu kém. Nhiều doanh nghiệp không được giải ngân, chuyển sang nhóm nợ xấu do ngân hàng vẫn phải đảm bảo khả năng thanh toán tài sản thế chấp.

Đại biểu Tô Ái Vang cho rằng, dù Ngân hàng Nhà nước buộc phải quy định trần room tín dụng, tuy nhiên, tỷ lệ bắt buộc mà mỗi ngân hàng phải đảm bảo chính là hệ số an toàn trong các lĩnh vực cùng với dự trữ bắt buộc đã giúp Ngân hàng Nhà nước kiểm soát lạm phát. Do đó,  chỉ cần Ngân hàng Nhà nước sử dụng nhiều công cụ dự trữ bắt buộc cùng với áp dụng quy định hệ số an toàn kèm theo thì đã giúp các ngân hàng tự điều chỉnh mà không lệ thuộc quá nhiều vào trần room tín dụng.

“Vì thế, Ngân hàng Nhà nước cần có phương thức điều hành linh hoạt, đó là giao tổng room từ đầu năm và điều hành trên cơ sở kế hoạch được lập ra bởi sự thỏa thuận giữa ngân hàng với khách hàng, tránh tình trạng nửa đầu năm tăng tốc, cuối năm hết room hoặc là bị siết lại một cách đột ngột, làm cho doanh nghiệp có thể đi đến vỡ kế hoạch trong đầu tư hoặc là trong sản xuất, kinh doanh”, vị đại biểu Sóc Trăng nêu quan điểm.

Vẫn theo đại biểu Vang, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét có cơ chế cho vay linh hoạt, đa dạng, nhất là các gói cho vay tín chấp dựa trên thời gian hoạt động có hiệu quả và dòng tiền của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại rà soát lại toàn bộ thủ tục, điều kiện tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp, đẩy nhanh giải ngân gói hỗ trợ lãi suất, triển khai hiệu quả chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn.

Dẫn kết quả khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đại biểu Lê Hữu Trí (Khánh Hoà) nhấn mạnh những khó khăn hàng đầu mà doanh nghiệp gặp phải là tiếp cận tín dụng có nhiều trở ngại, bao gồm cả tín dụng, nguồn vốn, lãi suất ưu đãi của Chính phủ và nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Ông nhấn mạnh, đây cũng là một trong những yếu tố làm cho doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phá sản, giải thể, bán lại doanh nghiệp.

Cần chủ động xem xét tiếp tục hạ lãi suất nhằm hỗ trợ tăng trưởng, đại biểu Trí đề nghị.

Thống đốc: Không thể nói tín dụng tăng thấp là do chính sách

Phát biểu trước Quốc hội trong phiên thảo luận sáng 1/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho rằng, không thể nói tín dụng tăng trưởng tín dụng thấp là do chính sách.

Đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đánh giá cao  trách nhiệm của Chính phủ khi phải dùng cả mệnh lệnh hành chính để yêu cầu giảm lãi suất. Tuy nhiên, đại biểu này cho rằng, việc giảm lãi suất không quan trọng bằng việc tiếp cận được vốn và đưa nguồn vốn đó vào sản xuất, kinh doanh. Việc giảm lãi suất và đơn giản điều kiện, thủ tục vay cần thực chất để vốn đến đúng, trúng và trực tiếp đối với doanh nghiệp đang cần. Cùng với tín dụng, cần tiếp tục khơi thông các kênh dẫn vốn khác như trái phiếu, chứng khoán, đồng thời cần tiếp tục rà soát để đơn giản thủ tục hành chính một cách thực chất hơn.

f
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.

Trước ý kiến của các đại biểu, Thống đốc cho hay, về lãi suất, sở dĩ năm 2022, NHNN buộc phải chấp nhận mặt bằng lãi suất cao là 2 lý do.

Thứ nhất là, lãi suất quốc tế đồng loạt tăng nhanh và mạnh, trong nước lạm phát vẫn ở mức cao hơn so với năm 2021.

Thứ hai là, áp lực mất giá của đồng Việt Nam rất lớn (thời điểm tháng 9, tháng 10/2022, VNĐ chịu áp lực mất giá lên đến 9-10%).  Tăng lãi suất là giải pháp để tránh mất giá đồng tiền, khiến chi phí đầu vào tăng cao, lạm phát tăng cao. Khi ổn định được tỷ giá trở lại, với điều kiện lạm phát tăng chậm lại, trong những tháng đầu năm này, NHNN đã quyết liệt điều chỉnh 3 lần mức điều hành lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất các khoản cho vay mới giảm 0,9% bình quân so với năm 2021.

Lý giải việc không điều chỉnh room tín dụng đầu quý IV/2022 khi hàng loạt ngân hàng khát room, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, sự cố rút tiền hàng loạt xảy ra tại SCB tháng 10/2022 gây nguy cơ tác động lan truyền tới hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung ưu tiên vừa ổn định thị trường ngoại hối và đặc biệt là đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo chi trả cho người dân. Vì vậy, không thể điều chỉnh room tín dụng vào thời điểm đó, sau khi thanh khoản ổn định trở lại thì Ngân hàng Nhà nước mới điều chỉnh tăng trưởng tín dụng.Từ việc đổ vỡ của nhiều ngân hàng Mỹ thời gian qua, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, ưu tiên đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ là lựa chọn đúng đắn.

Về tín dụng, Thống đốc thừa nhận tín dụng 5 tháng đầu năm nay tăng thấp (khoảng 3%). Tuy nhiên, người đứng đầu NHNN cho rằng, không thể nói tăng trưởng tín dụng thấp là do chính sách bởi thanh khoản tiền được duy trì dồi dào, thậm chí dư thừa. Sang nửa đầu năm nay, dư địa room tín dụng của các ngân hàng rất rộng rãi, dư thừa, không có lý do gì để các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi, trả lãi cho người gửi tiền mà khi doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn lại không cho vay.

Nguyên nhân chính khiến tín dụng khó tăng, theo NHNN là từ phía doanh nghiệp không có đơn hàng, không có đầu ra nên cầu tín dụng yếu. Hiện nay, Thủ tướng đã chỉ đạo quyết liệt để xúc tiến thương mại nhưng cần có thêm thời gian. Thống đốc cho rằng, doanh nghiệp cũng như các cơ quan cần hướng đến khai thác thị trường nội địa với 100 triệu dân để thay thế cho sự suy giảm của cầu nước ngoài.

“Về phía Ngân hàng Nhà nước thì trong những tháng đầu năm, khi điều kiện thuận lợi và cầu tín dụng thấp, chúng tôi điều hành để duy trì thanh khoản dồi dào, điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, cũng ban hành thông tư để cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ và cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải rà soát để giảm thủ tục hành chính cũng như là cho vay, căn cứ trên cơ sở phương án khả thi và có khả năng trả nợ và cũng không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo”, Thống đốc khẳng định.

Về tín dụng bất động sản, Thống đốc thừa nhận tăng trưởng tín dụng bất động sản thường cao hơn so với mức tăng chung của nền kinh tế. Mặc dù vậy, muốn thúc đẩy tín dụng lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp cần tháo gỡ khó khăn pháp lý.

“Những khó khăn của thị trường bất động sản hiện nay thì 70% là khó khăn về pháp lý, nên giải pháp bây giờ phải tập trung và tháo gỡ vướng mắc pháp lý, các doanh nghiệp cũng cần rà soát để điều chỉnh giá bất động sản để kích thích tín dụng doanh nghiệp bất động sản cũng như người mua nhà”, Thống đốc nhận định.

Về gói tín dụng 120.000 tỷ đồng do 4 ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước tự nguyện tham gia để thực hiện mục tiêu 1 triệu căn hộ cho công nhân cũng như người có thu nhập thấp, Bộ Xây dựng đã có hướng dẫn và ủy quyền cho các địa phương công bố danh mục Dự án.  Thực tế, nhu cầu về nhà ở xã hội và nhà ở công nhân cao, nhưng nhu cầu vay lại là vấn đề, bởi quyết định vay để mua một căn hộ là do người dân. Việc này, theo Thống đốc, sẽ được triển khai trong thời gian tới, đặc biệt trong luật nhà ở hiện nay trình Quốc hội kỳ này đã có điểm “cho phép doanh nghiệp mua nhà để bố trí nhà ở cho công nhân.

Riêng về việc tái cơ cấu ngân hàng yếu kém, Thống đốc thừa nhận đây là việc tồn đọng, khó xử lý. Thống đốc mong đại biểu Quốc hội thấu hiểu, chia sẻ bởi tái cơ cấu một ngân hàng yếu kém trong điều kiện khó khăn càng khó hơn. Tuy nhiên, thực tế Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ rất quyết liệt thực hiện. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ, Thủ tướng Chính phủ đã họp với ngân hàng đầu tiên và cũng yêu cầu phải tiến hành quyết liệt các giải pháp để tái cơ cấu.

“Cho đến nay, các ngân hàng yếu kém đã trình xin chủ trương cấp có thẩm quyền và hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng như các bộ, các ngành dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đang thực hiện rất quyết liệt các bước để trước khi phê duyệt đề án chi tiết theo đúng chủ trương của cấp có thẩm quyền và theo đúng quy định của pháp luật”, Thống đốc cho biết thêm.

Ngân hàng Nhà nước đã bơm trả thị trường 87.200 tỷ đồng, ngân hàng dồn dập hạ lãi suất  

Trong tuần qua (tính tới phiên 1/6), NHNN đã đáo hạn thêm 18.200 tỷ đồng tín phiếu. Như vậy, trong vòng 3 tuần gần đây, NHNN đã đáo hạn 87.200 tỷ đồng tín phiếu, bơm trả lại thị trường.

Trước đó, từ ngày 15/2, NHNN đã triển khai việc phát hành tín phiếu kỳ hạn 91 ngày để hút bớt thanh khoản hệ thống trong bối cảnh lãi suất liên ngân hàng liên tục giảm sâu. Sau gần 1 tháng ròng rã hút thanh khoản, lượng tín phiếu 91 ngày lưu hành đến giữa tháng 3 đạt gần 110.700 tỷ đồng.

Sau 3 tuần liên tiếp đáo hạn tín phiếu, lượng tín phiếu đang lưu hành hiện chỉ còn 23.500 tỷ đồng và sẽ được NHNN lần lượt bơm trả thị trường từ nay đến giữa tháng 6/2023. Lượng vốn lớn bơm ra thị trường của NHNN đang giúp thanh khoản hệ thống thêm dồi dào.

Trong khi đó, lãi suất liên ngân hàng vẫn dao động ở mức 4-5% khá ổn định trong tuần qua. Đầu tuần qua, lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng là 3,97% song đã tăng trở lại mức 4,06% vào phiên 1/6.

Mặc dù vậy, lãi suất huy động trên thị trường vẫn tiếp tục hạ nhiệt. Sau khi NHNN hạ lãi suất điều hành thêm 0,5% từ ngày 25/5, một loạt ngân hàng đã điuè chỉnh lãi suất huy động ở mức 0,3-0,8%/năm tùy từng kỳ hạn.

Hiện tại, mức lãi suất huy động cao nhất thị trường hiện nay là 8,5-8,6%/năm, áp dụng tại số ít ngân hàng như GPBank, ABBank. Đa số các ngân hàng đưa lãi suất tiền gửi cao nhất lên mức 7,5-8,3%/năm.

Riêng nhóm Big 4 (Vietcombank, VietinBank, BIDV, Agribank) có lãi suất thấp nhất hệ thống, chỉ 6,8%/năm cho kỳ hạn 12 tháng khi gửi tại quầy. Đối với gửi online, lãi suất của một số ngân hàng là 7%/năm.

Sau những động thái quyết liệu của Ngân hàng Nhà nước, VnDirect kỳ vọng lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng bình quân hạ về mức 6,5-6,7%/năm vào cuối năm 2023 do một số nguyên nhân. Thứ nhất, nhu cầu tín dụng giảm do tăng trưởng kinh tế giảm tốc và thị trường bất động sản ảm đạm. Thứ hai, Chính phủ thúc đẩy đầu tư công qua đó bơm thêm tiền vào nền kinh tế, Thứ ba, vẫn còn dư địa giảm thêm lãi suất điều hành vào cuối năm 2023.

Mặt khác, tăng trưởng tín dụng tiếp tục giảm tốc trong những tháng đầu năm 2023 do ảnh hưởng của môi trường lãi suất cao, thị trường bất động sản & trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều khó khăn cũng như triển vọng kinh tế nói chung vẫn tương đối ảm đạm.

Không dễ dàng cho nhà băng phá sản, cần khoản vay đặc biệt lãi suất 0%

Theo nghị trình Kỳ họp thứ năm của Quốc hội, Dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ được trình vào sáng 5/6.

Một trong nội dung đáng chú ý của lần sửa đổi này là Dự thảo cho phép sử dụng cho vay đặc biệt ngay từ bước can thiệp sớm, đồng thời mở rộng thêm một số khái niệm như cho vay không có tài sản bảo đảm, chỉ định cho vay đặc biệt; ấn định lãi suất cho vay đặc biệt là 0%/năm và cơ chế hỗ trợ cho tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay đặc biệt.

Thẩm tra sơ bộ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo làm rõ việc cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm ảnh hưởng thế nào đến khả năng thu hồi khoản vay đặc biệt.

Nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc việc bổ sung quy định khoản vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm do về nguyên tắc các tổ chức tín dụng phải bảo đảm khả năng thanh toán, nếu không có bảo đảm sẽ không có tính cảnh báo, răn đe các ngân hàng thực hiện nghiêm túc điều kiện đảm bảo khả năng thanh toán do biết có thể được vay đặc biệt dẫn đến hệ lụy rủi ro cho người cho vay và khách hàng; đồng thời, đề nghị làm rõ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước và các bên liên quan trong trường hợp không thu hồi được khoản vay đặc biệt.

Ngoài ra, Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ cơ sở, sự cần thiết, đánh giá tác động kỹ lưỡng đối với việc sửa đổi quy định về lãi suất cho vay đặc biệt từ “đến mức 0%” thành “là 0%” như quy định tại dự thảo (tránh việc ấn định cùng một mức lãi suất ưu đãi tối đa cho từng TCTD có thực trạng và vấn đề xử lý khác nhau); làm rõ cơ sở đề xuất biện pháp chỉ định cho vay đặc biệt, sự cần thiết của việc hỗ trợ các TCTD cho vay đặc biệt cũng như được chỉ định cho vay đặc biệt; đánh giá tác động của việc cho vay đặc biệt đối với chính các TCTD được chỉ định này.

Trong trường hợp chỉ định một số TCTD cho vay đặc biệt thì cần làm rõ căn cứ Ngân hàng Nhà nước lựa chọn TCTD để chỉ định cho vay đặc biệt cũng như căn cứ phân bổ số tiền cho vay đặc biệt đối với mỗi TCTD cho vay đặc biệt. Việc chỉ định TCTD cho vay đặc biệt với lãi suất 0% như quy định tại Điều này có mâu thuẫn với quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của TCTD quy định dự thảo không?

Tại văn bản giải trình, Chính phủ cho rằng, Ngân hàng nhà nước với nhiệm vụ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD, cần thiết cho vay đặc biệt để hỗ trợ thanh khoản đối với TCTD có nguy cơ/mất khả năng chi trả, đe dọa sự ổn định của hệ thống.

Trên thực tế, có trường hợp TCTD có đủ tài sản bảo đảm (TSBĐ) cho khoản vay đặc biệt, nhưng cũng đã có trường hợp/giai đoạn cấp bách, tài sản của TCTD rất hạn chế, không đáp ứng yêu cầu TSBĐ khoản vay đặc biệt theo quy định, NHNN đã phải cho vay đặc biệt không có TSBĐ.

Đối với trường hợp thực tế gần đây, TCTD bị rút tiền hàng loạt và không đủ TSBĐ, nếu Ngân hàng nhà nước không cho vay đặc biệt để chi trả cho người gửi tiền thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền, tình trạng rút tiền lan truyền cả hệ thống, dẫn đến nguy cơ mất an toàn hệ thống TCTD, kéo theo sự bất ổn của kinh tế, chính trị, xã hội.

Việc cho vay đặc biệt không có TSBĐ, theo Chính phủ, không thể tránh khỏi bất lợi về khả năng thu hồi khoản vay, tuy nhiên, trong điều kiện nguồn lực của Bảo hiểm tiền gửi và NSNN còn hạn chế, việc cho phép TCTD phá sản là không dễ dàng (cần cân nhắc đến hệ lụy đối với sự ổn định chính trị, xã hội, an ninh, chính trị) thì biện pháp cho vay đặc biệt, kể cả khi phải cho vay không có TSBĐ vẫn cần thiết để hạn chế các tổn thất nghiêm trọng hơn về mặt kinh tế, chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, khoản cho vay đặc biệt chỉ áp dụng đối với một số trường hợp và có quy định về ưu tiên hoàn trả khoản vay đặc biệt .

Hồi âm băn khoăn của cơ quan thẩm tra về lãi suất cho vay 0%, Chính phủ giải thích biện pháp cho vay đặc biệt không chỉ hỗ trợ riêng TCTD vay đặc biệt mà nhằm đáp ứng tốt hơn quyền lợi cho người dân, tổ chức gửi tiền, bảo đảm an toàn hệ thống TCTD, ổn định an ninh, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, lợi ích của biện pháp cho vay đặc biệt lãi suất 0% cần được xét trên tổng thể, dài hạn về mặt kinh tế, xã hội.

Việc quy định rõ mức lãi suất 0% áp dụng chung đối với khoản cho vay đặc biệt tạo sự rõ ràng, minh bạch trong thực hiện vì thực tế các TCTD phải vay đặc biệt đều gặp các khó khăn như nêu trên, không có cơ sở để phân định từng mức lãi suất đối với từng trường hợp.

Về tác động , theo báo cáo, khi cho vay đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước đưa tiền ra lưu thông (không sử dụng nguồn NSNN), tương tự như thực hiện các biện pháp, công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở…, tác động đến thanh khoản, tiền tệ, lạm phát tùy theo diễn biến tiền tệ, thị trường. Cho vay đặc biệt là biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn hệ thống TCTD, ngăn chặn đổ vỡ hàng loạt, góp phần bảo đảm hệ thống thanh toán thông suốt, duy trì ổn định trật tự và an toàn xã hội, qua đó, thị trường tiền tệ, môi trường hoạt động ngân hàng, kinh doanh cũng được ổn định để thực thi chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách kinh tế vĩ mô khác một cách hiệu lực, hiệu quả.

Khi xảy ra trường hợp TCTD có nguy cơ hoặc lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, dù do nguyên nhân chủ quan hay khách quan, Chính phủ cần có biện pháp ngăn chặn tình trạng đổ vỡ, mất an toàn hệ thống (đây là thực tế chung các nước, không chỉ có Việt Nam). Trong đó, cho vay đặc biệt là một trong các biện pháp cần thiết được xem xét thực hiện, báo cáo nêu.

Chính phủ cũng cho rằng, đối với việc chỉ định cho vay đặc biệt thì không thể tránh các vướng mắc như ý kiến của Ủy ban Kinh tế. Tuy nhiên biện pháp chỉ định chỉ áp dụng khi đảm bảo an toàn hệ thống, đảm bảo an ninh trật tự xã hội. Đảm bảo an toàn hoạt động cũng chính là đảm bảo an toàn chi chính TCTD đó và các TCTD cũng có trách nhiệm chung trong quá trình đảm bảo an toàn hoạt động TCTD.

Điều hành thị trường trên cơ sở cân bằng tỷ giá

Trong 5 năm trở lại đây, thị trường tài chính gánh chịu nhiều biến động từ các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Việc áp dụng biện pháp chống lạm phát của các quốc gia tạo áp lực lên tỷ giá, đòi hỏi công tác điều hành phải hết sức linh hoạt.

Từ năm 2018 đến nay, thế giới chứng kiến nhiều xung đột thương mại, chính trị hay sự kiện bất ngờ, thậm chí dẫn đến những cú sốc kinh tế, tiêu biểu như cuộc xung đột Nga – Ukraine; cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung leo thang (năm 2018); đại dịch Covid-19; Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) điều chỉnh lãi suất về 0 – 0,25% (năm 2020); chính sách zero-Covid của Trung Quốc; thông tin vỡ nợ của Evergrande – tập đoàn bất động sản lớn thứ hai Trung Quốc (năm 2021); khủng hoảng năng lượng tại châu Âu năm 2022; Silicon Valley Bank (Mỹ) sụp đổ trong những tháng đầu năm 2023…

Với hàng loạt sự kiện có tác động trực diện tới nền kinh tế toàn cầu, chính phủ các nước đã có những động thái trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm ổn định kinh tế quốc gia.

Tỷ giá luôn được đánh giá là nhân tố quan trọng trên thị trường. Chính sách tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến biến động của thị trường tài chính. Hiện nay, USD vẫn là đồng tiền thanh toán đóng vai trò trung tâm trong thương mại, hệ thống tài chính nói chung và hệ thống tiền tệ thế giới nói riêng.

Theo đó, khi USD tăng giá, có xu hướng làm tăng giá nhập khẩu nước ngoài, tác động trực tiếp làm tăng giá hàng hóa, đồng nghĩa lạm phát cũng bắt đầu tăng lên. Điều này có nghĩa là, giá nhập khẩu sẽ cao hơn và nguồn dự trữ USD tại các quốc gia dần cạn kiệt do chi phí thanh toán bằng USD tăng lên. Thực tế cho thấy, hầu hết hàng hóa được định giá bằng USD, các quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu năng lượng, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp phải đối mặt với áp lực lạm phát bổ sung do USD tăng mạnh.

Với chuỗi hoạt động kiềm chế mức tăng quá nóng của lạm phát, USD đã đạt mức cao nhất trong 2 thập kỷ vào tháng 9/2022. Từ đầu năm 2023 đến nay, tuy USD có dấu hiệu hạ nhiệt, nhưng áp lực từ biến động tỷ giá vẫn là bài toán của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, trước tình hình bất ổn của kinh tế vĩ mô toàn cầu, với 3 biểu hiện chính, gồm: áp lực lạm phát, rủi ro suy thoái kinh tế toàn cầu và diễn biến kinh tế tiêu cực ở nhiều quốc gia.

Tại Mỹ, Bộ Tài chính có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội về sự phát triển chính sách tỷ giá hối đoái của các đối tác thương mại lớn với Mỹ, định kỳ nửa năm 1 lần. Bên cạnh đó, Khung đánh giá tỷ giá hối đoái toàn cầu của Kho bạc Mỹ được ban hành nhằm tạo công cụ đánh giá các khoản định giá tiền tệ có hợp lý so với điều kiện kinh tế – xã hội của quốc gia hay không.

Ngoài ra, Mỹ còn ban hành Đạo luật Thúc đẩy và thuận lợi hóa thương mại (năm 2015) nhằm thiết lập các tiêu chí để xác định thao túng tiền tệ.

Tại châu Âu, cuộc xung đột Nga – Ukraine đã tác động đến an ninh năng lượng và gây lo ngại về hoạt động kinh tế ở khu vực châu Âu. Trong năm 2022, ngân hàng Trung ương châu Âu đã tăng lãi suất lên mức cao nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009.

Đối với Nhật Bản, trước những lo ngại liên quan đến chênh lệch tỷ giá có thể phát sinh, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản xây dựng báo cáo công bố về tỷ giá ngoại hối định kỳ hàng tháng. Đối với chính sách điều hành tỷ giá, sự can thiệp của các cơ quan, ban, ngành chỉ dành cho những trường hợp rất đặc biệt với sự tham vấn trước phù hợp, trên tinh thần tôn trọng tính tự do giao dịch của thị trường.

Tại Trung Quốc tồn tại 2 loại nhân dân tệ là CNY và CNH. Trong đó, CNY bị kiểm soát tập trung bởi chính quyền trung ương Trung Quốc, còn CNH là đồng tiền thực hiện giao dịch ngoại hối tự do trên thị trường, đáp ứng mục tiêu quốc tế hóa tiền tệ quốc gia và không bị kiểm soát bởi chính quyền trung ương. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc quản lý nhân dân tệ bằng cách thiết lập tỷ giá ngang giá trung tâm, quy định về biên độ giao dịch mà nhân dân tệ trong nước được phép giao dịch trong phạm vi 2% theo cả 2 hướng tăng và giảm.

Chính sách ngoại hối cho phép chính quyền Trung Quốc can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối thông qua việc gây ảnh hưởng lên lãi suất của các tài sản bằng nhân dân tệ giao dịch ở nước ngoài, thiết lập và lựa chọn thời gian, khối lượng giao dịch đối với hợp đồng kỳ hạn của các ngân hàng quốc doanh tại Trung Quốc và việc chuyển đổi tiền thu được từ ngoại hối của các doanh nghiệp nhà nước.

Với vai trò quan trọng trong việc giám sát và dự báo tác động trên thị trường tài chính nói chung và tỷ giá hối đoái nói riêng, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) – tổ chức tài chính quốc tế của Liên hợp quốc – góp phần điều hòa thị trường trước những biến động tỷ giá, duy trì các cam kết về tỷ giá hối đoái để đảm bảo trật tự cân bằng trên thị trường chung, tăng trưởng bền vững và thịnh vượng. 

Tuy nhiên, chính sách điều hòa trước biến động tỷ giá hối đoái chỉ có hiệu quả khi sợi dây liên kết với lập trường chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ) nhất quán. Theo chiến lược điều tiết thị trường toàn cầu, ổn định tỷ giá luôn là chính sách quan trọng, nằm trong cam kết của các thành viên G7, G20 và IMF.

Đơn cử, trong nội dung Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng tài chính G20 từ năm 2013 đến nay, sự biến động quá mức của các dòng tài chính và những biến động bất ổn trong tỷ giá hối đoái có tác động bất lợi đối với sự ổn định kinh tế và tài chính. Theo đó, các nước áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt và đồng nhất trên tinh thần hợp tác chặt chẽ để cùng nhau phát triển.

Điều hành tỷ giá nằm trong chính sách ngoại hối của các quốc gia. Tại Việt Nam, cân bằng tỷ giá được xác định là mục tiêu quan trọng. Từ năm 1999, nước ta đã có những quy định cơ bản về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nói chung và cân bằng tỷ giá nói riêng.

Theo Nghị định số 86/1999/NĐ-CP, Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá vàng là nền tảng để ứng phó với biến động tỷ giá, cho thấy sự quan tâm của Chính phủ về việc điều hòa chính sách ngoại hối dựa trên các nghiệp vụ liên quan đến tỷ giá.

Hiện nay, để quản lý dự trữ ngoại hối rõ ràng và hiệu quả hơn, Quỹ Dự trữ ngoại hối, Quỹ Bình ổn tỷ giá và quản lý thị trường vàng được tách biệt dưới sự quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước, theo Điều 2 và khoản 2, Điều 3, Nghị định số 50/2014/NĐ-CP.

Ngày 17/10/2022, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay USD/VND từ mức ±3% lên ±5%. Nhìn lại cả năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã nhiều lần thay đổi biên độ tỷ giá giao ngay USD/VND. Đây là sự chủ động thích ứng trước áp lực biến động tỷ giá trên thị trường.

Có thể thấy, chính sách can thiệp tỷ giá được xem là một công cụ để đối phó với áp lực thị trường, không phải là biện pháp thay thế. Các cơ quan chức năng cần thiết lập chính sách kiểm soát linh hoạt dựa trên sự cho phép tỷ giá hối đoái biến động theo thực tế thị trường để phản ánh các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế và hạn chế can thiệp ngoại hối trong trường hợp điều kiện thị trường rối loạn, đồng thời tránh tích trữ, dự trữ ngoại hối quá mức.

Một số ngân hàng vẫn đạt mức tăng trưởng tín dụng đáng ngạc nhiên

Báo cáo “Cập nhật ngành ngân hàng và bất động sản và Tác động đến thị trường chứng khoán” do SSI Research vừa công bố cho thấy, nhu cầu tín dụng toàn nền kinh tế rất yếu 4 tháng đầu năm.

Trong nhóm 12 ngân hàng lớn và trung bình mà SSI nghiên cứu, tín dụng chỉ đạt 12% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với quý 1/2022 (20%) và chỉ tương đương với thời điểm dịch bệnh bắt đầu (quý 1/2020).

Hiện tại, một số ngân hàng vẫn đạt mức tăng trưởng tín dụng đáng ngạc nhiên. Theo SSI Research, động lực tăng trưởng chính đến từ các khoản cho vay ngắn hạn cho doanh nghiệp. Dư nợ cho vay ngành bất động sản và xây dựng vẫn đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, có thể thấy rõ tại một vài ngân hàng. Trong khi tín dụng bất động sản vẫn tăng trưởng tốt thì tín dụng các lĩnh vực khác tăng chậm, do tình hình kinh tế thế giới và trong nước không mấy thuận lợi.

Xét trên toàn hệ thống, theo SSI Research, tín dụng tính tới tháng 4/2023 chỉ tăng khoảng 3% so với đầu năm, riêng tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản là 9,78%.

Nhiều khả năng, con số mà SSI Research thống kê là tín dụng kinh doanh bất động sản. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước công bố trước đó, tính đến ngày 25/4, tín dụng bất động sản tăng 3,51%, trong đó vay mua nhà cá nhân sụt giảm mạnh, vay kinh doanh bất động sản tăng mạnh.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, triển vọng ngân hàng nửa cuối năm sau sẽ phụ thuộc vào sự tiến triển về mặt pháp lý của các Dự án bất động sản. Chỉ khi giải quyết được những vấn đề này, các ngân hàng mới có thể kỳ vọng vào sự phục hồi mạnh mẽ. Hiện tại, vấn đề này đang được giải quyết theo từng trường hợp cụ thể, thay vì một giải pháp tổng thể cho toàn bộ các dự án. Do đó, tác động đối với từng ngân hàng có tỷ trọng cho vay  với thị trường bất động sản cũng sẽ rất khác nhau. Tương tự như vậy, việc cơ cấu lại nợ cũng sẽ được cân nhắc theo từng trường hợp cụ thể dựa vào khả năng hồi phục của khách hàng.

Cụ thể, với các dự án không vướng mắc pháp lý, SSI Research kỳ vọng các dự án này có thể nhận được nguồn vốn từ ngân hàng để tiếp tục xây dựng và đủ điều kiện tái cơ cấu. Các khoản cho vay mua nhà liên quan sau đó cũng có thể được xem xét để giãn thời gian trả nợ. Như vậy, nhà phát triển bất động sản có thể hoàn thành dự án và bàn giao căn hộ cho người mua nhà sau này. Theo đó, rủi ro nợ xấu phát sinh từ chuỗi giá trị bất động sản liên quan đến các dự án đó có thể dần được kiểm soát vào năm 2024.

Tuy nhiên, với các dự án có vấn đề pháp lý phức tạp (như sai quy hoạch). Việc gia hạn thêm 1 năm cho các dự án này có thể là chưa đủ. Do đó, việc cơ cấu các khoản vay cho những dự án này và các khoản vay mua nhà liên quan có thể được ngân hàng xem xét một cách cẩn trọng.

Trong khi đó, điểm mấu chốt của những ngành nghề khác (như thép, xuất nhập khẩu, năng lượng tái tạo…) là liệu các doanh nghiệp này có thể sớm có đơn đặt hàng mới trở lại hay có thể đảm bảo đầu ra cho sản phẩm với giá ưu đãi để cải thiện dòng tiền đủ để thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn trong nửa cuối năm 2024 hay không.

“Chúng tôi đang theo dõi việc hạ lãi suất có giúp nhu cầu tín dụng phục hồi hay không đặc biệt là trong thời điểm mà tổng cầu quốc tế và nội địa đều đang rất yếu do tình hình kinh tế không thuận lợi”, các chuyên gia phân tích nhận định.

Mặt bằng lãi vay chưa thể giảm đại trà

Từ tuần này, các ngân hàng rục rịch lên kế hoạch điều chỉnh lãi suất với các khoản cho vay hiện hữu. Dù vậy, mặt bằng lãi suất cho vay đại trà chưa thể giảm ngay do các ngân hàng còn tồn kho khá lớn lượng vốn đắt huy động trước đó.

Từ đầu tuần này, thêm hàng loạt ngân hàng giảm lãi suất huy động. Lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng của nhóm Big 4 còn 5,5%/năm, nhóm ngân hàng TMCP lớn và trung giảm hết về mức dưới 8%/năm và chỉ còn lác đác ngân hàng nhỏ có lãi suất 8 – 8,3%/năm. Với các kỳ hạn dài, lãi suất huy động chỉ còn 8,6%/năm.

Điểm đáng chú ý là, lãi suất huy động có sự phân hóa rõ rệt. Theo đó, lãi suất huy động nhiều kỳ hạn của nhóm Big 4 đang thấp hơn nhóm ngân hàng TMCP từ 1 – 3%, cho thấy tình trạng dư thừa vốn tại các ngân hàng không đồng đều. Trong khi các ngân hàng lớn thừa vốn, thì các ngân hàng nhỏ vẫn phải duy trì lãi suất cao để thu hút vốn. Theo đó, không phải ngân hàng nào cũng có thể sớm giảm lãi suất cho vay.

Hiện nhiều khách hàng vay vốn vẫn chưa được ngân hàng giảm lãi vay với dư nợ cũ. Phía ngân hàng TMCP cho biết, sẽ giảm 0,3 – 0,5% lãi vay với khách hàng hiện hữu, song chỉ áp dụng với một thời gian hoặc với gói tín dụng nhất định, chưa thể áp dụng sâu rộng.

Lãnh đạo một ngân hàng TMCP cho hay, quý IV/2022 và quý I/2023, ngân hàng này phải chịu mặt bằng lãi suất huy động quá cao, lãi suất huy động mới bắt đầu hạ nhiệt vài tháng. Trong khi đó, cung – cầu tín dụng biến đổi quá nhanh (cuối năm 2022, cầu lớn, nhưng ngân hàng thiếu room; đầu năm nay, thanh khoản bắt đầu dồi dào, thì cầu tín dụng lại quá yếu) khiến ngân hàng đang ế một lượng “vốn đắt” rất lớn.

“Chúng tôi rất muốn giảm lãi suất để kích cầu tín dụng, song đang tồn một lượng không nhỏ vốn huy động với lãi suất cao, cần thời gian để tiêu thụ hết thì mới giảm lãi suất được. Hiện chúng tôi chỉ có thể giảm lãi suất cho khách hàng vay mới, còn khách hàng hiện hữu thì chỉ giảm được trên cơ sở chọn lọc, nếu giảm ngay toàn bộ, sẽ gây áp lực rất lớn với ngân hàng”, vị lãnh đạo này chia sẻ.

Theo các ngân hàng thương mại, việc Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất điều hành đã tạo điều kiện cho ngân hàng hạ lãi vay, giảm chi phí vốn, từ đó hạ lãi suất huy động. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất cho vay được triển khai rộng đến đâu còn tùy thuộc vào việc ngân hàng “tồn kho” vốn đắt bao nhiêu, cũng như huy động được bao nhiêu vốn giá rẻ thời gian tới.

“Số vốn huy động giá cao của ngân hàng còn nhiều, song sẽ vơi dần. Lượng vốn mới giá thấp hơn dần trung hòa chi phí giá vốn cho các ngân hàng. Đến khi trung hòa được chi phí, các ngân hàng chủ động giảm lãi suất cho vay nhiều hơn”, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Ngân hàng OCB nhận định.

Tồn kho vốn đắt vẫn còn, trong khi sức ép giảm lãi suất cho vay ngày càng tăng khiến các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụt giảm NIM (chênh lệch lãi suất huy động/lãi suất cho vay).

 Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, sau 2 năm đạt đỉnh lợi nhuận, ngành ngân hàng sẽ phải giảm tốc, co hẹp NIM để hỗ trợ nền kinh tế và tự cứu mình. Năm 2022, tăng trưởng lợi nhuận trung bình của 29 ngân hàng ở mức 34%, nhưng năm nay, đa số chỉ đặt mục tiêu 13 – 15%.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế tính toán, năm 2022, NIM bình quân của các ngân hàng khoảng 3,5%. Với lãi suất cho vay chịu áp lực giảm như hiện nay, NIM ngân hàng sẽ quay về mức 3,2% như năm 2021 – vẫn là con số khả quan.

Lợi nhuận ngân hàng năm 2023 đang có nhiều yếu tố bất lợi như: thu nhập từ lãi dự kiến kém đi (tín dụng tăng thấp, NIM giảm); thu nhập ngoài lãi giảm; áp lực dự phòng tăng mạnh. Đây là lý do khiến “cổ phiếu vua” chưa bứt phá sau khi lãi suất điều hành hạ nhiệt.

Tuy vậy, theo TS. Cấn Văn Lực, các chính sách hỗ trợ nền kinh tế (gồm cả hạ lãi suất) đang tác động tích cực lên ngành ngân hàng. Trước mắt, ngành này có thể sẽ hạ nhiệt tăng trưởng từ đỉnh, song vẫn giữ được tốc độ sinh lời khả quan và triển vọng sáng sủa dài hạn.

“Trong chu kỳ 3 – 4 năm, chúng tôi vẫn thấy dư địa lớn để các ngân hàng Việt ghi nhận các động lực tăng trưởng mạnh mẽ (tăng trưởng tín dụng khoảng 14%, tỷ lệ NIM khoảng 4% và tăng trưởng thu nhập phí trên 20%)”, chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán Maybank nhận định.

Theo Maybank, 4 năm qua, các ngân hàng niêm yết đã tạo ra trên 25% lợi tức đầu tư mỗi năm cho các nhà đầu tư mua cổ phiếu ngân hàng theo chiến lược mua và nắm giữ. Một số ngân hàng như VIB, SHB và VPB thậm chí còn tạo ra lợi nhuận trung bình 35 – 50% cho các nhà đầu tư này.

Mặc dù triển vọng dài hạn vẫn sáng sủa, định giá cổ phiếu ngân hàng vẫn hấp dẫn, song để đầu tư vào cổ phiếu vua, giới chuyên gia khuyến nghị, nhà đầu tư cần nhìn vào dấu hiệu dòng tiền để tránh bị “chôn vốn”. Lý do là ngành ngân hàng có số lượng cổ phiếu lưu hành tương đối lớn với gần 60 tỷ cổ phiếu, vì thế, để cổ phiếu này lên giá mạnh, cần thêm dòng tiền lớn chảy vào.

Riêng với doanh nghiệp, các chuyên gia cho rằng, chưa thể kỳ vọng mặt bằng lãi suất quay về thời kỳ “tiền rẻ”. Hơn nữa, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, không thể trông chờ vào mỗi chính sách lãi suất, nhất là trong bối cảnh năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp như hiện nay. Chưa kể, nếu lãi suất giảm sâu quá, sẽ có những “phản ứng phụ” không mong muốn.

Bản Tin VPPA tháng 05/2023

Trong bản tin số 5 – tháng 5/2023 bao gồm:

1. Giá xuất – nhập khẩu bột giấy và giấy

2. Tình hình sản xuất – kinh doanh ngành giấy trong nước

3. Tin tức đầu tư 

Sự thành công dự án mới sản xuất Giấy Flulting và Testliner

Dự trữ bột giấy thương mại của các nhà sản xuất giấy trên toàn cầu đã tăng thêm 4 ngày cung cấp trong tháng 

CASCADES thông báo khởi động thành công nhà máy giấy bao bì tại Bear Island 

   >>> Xem BẢN TIN VPPA THÁNG 5/2023

Nghiên cứu xác lập quy trình công nghệ chế tạo giấy cuốn thuốc lá

Giấy cuốn thuốc lá thuộc loại giấy mỏng kỹ thuật có tính chất đặc thù như: giấy có định lượng thấp nhưng độ bền cơ học (độ bền kéo, độ bền xé cao), độ thấu khí thấp, độ tro, độ đục cao và đặc biệt là tốc dộ cháy phù hợp. Khi sử dụng vẫn phải giữ được hương vị của sản phẩm, đảm bảo các tính chất đặc thù nên được coi là một loại giấy đặc biệt cung cấp riêng cho ngành sản xuất thuốc lá. Hàng năm, sản phẩm giấy cuốn thuốc lá được sản xuất khoảng 700.000 tấn, chủ yếu ở châu Âu và Trung Quốc. Rất nhiều dòng sản phẩm giấy cuốn thuốc lá hiện nay phong phú về cả chủng loại, màu sắc, kích thước, định lượng, độ dày, cũng như hương vị tùy thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng. Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, trang thiết bị đang ngày càng phát triển và phổ biến, bên cạnh việc sử dụng nguồn nguyên liệu thông dụng, các loại hóa chất, phụ gia được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo an toàn thực phẩm, không gây hại cho con người thì việc đưa ra một chế độ công nghệ phù hợp cho sản xuất giấy cuốn thuốc lá là điều khả thi, bước đầu chế tạo thử nghiệm và đánh giá chất lượng sản phẩm, chủ động nguồn cung cho thị trường trong nước.
Hiện tại thị trường giấy cuốn thuốc lá trong nước phần lớn là nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài chủ yếu là Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu. Để tăng doanh thu cũng như giảm thiểu sự phụ thuộc từ thị trường bên ngoài, thì việc nghiên cứu công nghệ sản xuất giấy cuốn thuốc lá từ nguồn nguyên liệu và công nghệ trong nước góp phần thúc đẩy tính đa dạng cho các sản phẩm giấy đặc biệt nói riêng và ngành giấy trong nước nói chung. Xuất phát từ thực tiễn trên, Cơ quan chủ trì Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylô cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thị Hằng thực hiện “Nghiên cứu xác lập quy trình công nghệ chế tạo giấy cuốn thuốc lá” với mục tiêu: Xác lập được quy trình công nghệ chế tạo giấy cuốn thuốc lá quy mô pilot 2,5 tấn/ngày; Chế tạo thử giấy cuốn thuốc lá.
Dựa vào kết quả khảo sát, tổng sản lượng nhập khẩu giấy cuốn thuốc lá đến năm 2018, đạt lượng 10.471 tấn và về trị giá 19.737.048 USD. Thị trường cung ứng giấy cuốn thuốc lá chủ yếu cho Việt Nam, đến từ các quốc gia trong khu vực châu Á và châu Âu. Trong đó, sản lượng nhập khẩu lớn nhất là Indonesia và Phần Lan, lớn hơn rất nhiều so với mức cung ứng của các quốc gia còn lại. Các sản phẩm đa chủng loại được nhập về dưới dạng cuộn lớn và được các doanh nghiệp trong nước gia công 5 phục vụ nhu cầu trong nước. Ngoài ra, trên thị trường cũng có các khổ giấy khác tùy theo yêu cầu của khách hàng.
Tuy nhiên, mức sử dụng thuốc lá điếu và tỷ lệ số người tiêu dùng đang có xu hướng giảm dần do chính sách của nhà nước như tăng thuế và giá của sản phẩm để bảo vệ sức khỏe cộng đồng hoặc hiện nay xuất hiện nhiều văn hóa hút thuốc khác (ví dụ như: thuốc lá điện tử, vape, xì – gà…) khiến thị trường thuốc lá cũng như giấy cuốn điếu tại Việt Nam có nhiều thay đổi, dẫn đến sự chuyển hướng mục đích sử dụng trong sản xuất từ tiêu thụ nội địa sang xuất khẩu.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
– Đã xác lập được quy trình công nghệ sản xuất giấy cuốn thuốc lá ở quy mô phòng thí nghiệm.
– Đã hiệu chỉnh các thông số công nghệ, thiết bị trên dây chuyền sản xuất thông qua đợt chế tạo thử nghiệm. Từ đó, xây dựng được quy trình công nghệ sản xuất giấy cuốn thuốc lá trên dây chuyền sản xuất pilot công suất 2,5 tấn/ngày tại Trung tâm Thực nghiệm và Triển khai ứng dụng – Viện công nghiệp Giấy và Xenluylô
– Sản xuất chế tạo thử nghiệm 64,3 kg sản phẩm giấy cuốn thuốc lá đạt chất lượng theo yêu cầu định lượng: 31,5 g/m2; độ thấu khí: 30,2 CU và 41,7 CU; độ đục: 71,6%; độ trắng: 87,2%ISO; độ tro: 17,8 %; độ dày: 43,0 µm; tốc độ cháy: 53 s/15 mm; độ bền kéo: 130,6 cN/mm; độ bền xé: 82,9 cN x 4; độ ẩm 7,0%.
– Sản phẩm giấy cuốn thuốc lá được đánh giá thử nghiệm bằng phương pháp cuốn điếu, đánh giá khả năng cháy của điếu thuốc, tàn thuốc khi cháy tại Công ty TNHH MTV Viện Thuốc lá. Kết quả đánh giá cho thất, sản phẩm về cơ bản đáp ứng được các yêu cầu chất lượng đề ra
– Chi phí sản xuất 1 tấn sản phẩm giấy cuốn thuốc lá trong đợt chế tạo thử nghiệm là 37.159.088 đồng và đang được quảng bá, giới thiệu sản phẩm, từng bước tiếp cận thị trường.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18407/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Nguồn: vista.gov.vn/

Nhiều doanh nghiệp châu Á đang đứng bên bờ vực vỡ nợ

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vừa cảnh báo, hàng loạt doanh nghiệp tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang đối mặt với nguy cơ vỡ nợ khi chỉ số thanh toán lãi vay (Interest coverage ratio – ICR) ở mức dưới 1 đã vượt ngưỡng 20%.

ICR là một chỉ số thể hiện khả năng trả lãi cho các khoản nợ của doanh nghiệp, giá trị này càng thấp thì gánh nặng lãi vay sẽ càng lớn. Khi tỷ lệ này nhỏ hơn 1 đồng nghĩa với việc số tiền doanh nghiệp kiếm được trong khoảng thời gian đó không đủ để trang trải lãi suất vay, điều đó sẽ đẩy doanh nghiệp đến bờ vực vỡ nợ.

Số liệu được IMF công bố ngày 29/5 cho thấy, số doanh nghiệp Hàn Quốc đang có ICR dưới 1 lên tới 31,1%. Ấn Độ, Thái Lan đứng hàng thứ 2 với 28,03%, Trung Quốc với 25,8%, Indonesia với 22,7%.

Trong khi đó, ICR dưới 1 của Philippines là 3,3%, Australia (6,3%), Singapore (6,6%), Nhật Bản (15,8%).

Dữ liệu được tính toán dựa trên tổng khoản nợ của doanh nghiệp bình quân trong giai đoạn từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022.

Tại Việt Nam, 18,32% doanh nghiệp có ICR dưới 1; 18,32% doanh nghiệp có ICR ở mức từ 1-4 (nhóm dễ bị vỡ nợ khi chi phí vay tăng cao) và 63,36% doanh nghiệp có ICR bằng 4 (nhóm vẫn có khả năng trả nợ tốt).

Cũng theo báo cáo của IMF, chi phí đi vay tăng cao đã làm tăng thêm rủi ro và giảm khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Nguyên nhân là do các ngân hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất trong thời gian dài để kiềm chế lạm phát. Ngay cả khi nền kinh tế đang tăng trưởng thì các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với áp lực tăng chi phí vay, điều này làm giảm khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

IMF cho rằng, nợ của Chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng ở các nước châu Á đã vượt xa mức trước khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, đồng thời bày tỏ sự quan ngại về các nhóm doanh nghiệp gia tăng vay vốn trong giai đoạn lãi suất đứng ở mức thấp.

“Nếu các ngân hàng trung ương tiếp tục giữ lãi suất cao trong thời gian dài, đồng thời thắt chặt các điều kiện tiếp cận tín dụng thì một bộ phận doanh nghiệp có thể vỡ nợ vì chi phí sử dụng vốn tăng vọt, đặc biệt là trong các ngành như bất động sản và xây dựng”, IMF nhận định.

Do đó, cơ quan này cảnh báo, các quốc gia châu Á cần giám sát chặt chẽ áp lực nợ vay của các doanh nghiệp trong bối cảnh lãi suất tăng nhằm lường trước các biến động trên thị trường.

Các ngân hàng trung ương nên tách mục tiêu chính sách tiền tệ khỏi mục tiêu ổn định tài chính, sử dụng các công cụ chuyên biệt như thanh khoản và các cơ sở cho vay để bảo vệ sự ổn định tài chính, cũng như tiếp tục điều chỉnh chính sách tiền tệ nhằm giải quyết áp lực của lạm phát.

Nguồn: Báo mới

Xanh hóa ngành công nghiệp giấy: Bài 2 – Đổi mới công nghệ sản xuất, tăng xúc tiến tìm khách hàng

Xúc tiến thương mại để tìm khách hàng

Trước bài toán khó về thị trường tiêu thụ đang giảm mạnh, trong khi chi phí đầu vào lại tăng cao, các doanh nghiệp chủ động đưa ra nhiều giải pháp để nỗ lực giảm chi phí đầu vào, hạn chế tăng giá bán sản phẩm; giảm bớt chi phí các khâu trung gian, xoay sở tìm thị trường, giữ ổn định sản xuất.

Ông Lương Văn Thành – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đông Hải Bến Tre cho biết, để giữ khách hàng, giữ thị trường doanh nghiệp chấp nhận giảm lợi nhuận, hạ giá thành sản phẩm. “Trong giai đoạn này nếu mất đơn hàng là mất khách hàng, mất thị trường. Do đó, công ty chấp nhận hạ giá thành, giảm lợi nhuận để lấy đơn hàng, duy trì hoạt động nhà máy, ổn định đời sống công nhân”, ông Thành cho biết.

Trong khi đó, với các đơn vị kinh doanh, để giữ chân khách hàng, công ty đã nhập đa dạng nhiều dòng sản phẩm khác nhau. Bà Hoàng Thị Thu Hường – Giám đốc Công ty TNHH sản xuất và phát triển thương mại Đại Thành – cho biết: Nếu trước đây công ty chỉ tập trung vào các sản phẩm như giấy phục vụ ngành may mặc, giấy vệ sinh thì nay phải nhập cả giấy làm bao bì, giấy làm nông sản… Cùng với đa dạng sản phẩm, đơn vị cũng tích cực hơn trong việc mở rộng khách hàng. Chính vì vậy, những tháng đầu năm trong khi sản lượng bình quân/khách hàng giảm song tổng sản lượng doanh nghiệp bán ra vẫn được duy trì.

Theo ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, giấy là ngành sản xuất đặc thù nên bản thân doanh nghiệp, hiệp hội phải tích cực trong việc quảng bá, xúc tiến thương mại, tìm kiếm khách hàng.

Trong bối cảnh nguồn cung dư thừa, trong khi thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn do sức mua giảm, ông Sơn cho rằng các doanh nghiệp cần hướng đến việc tìm kiếm khách hàng, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài.

Cũng theo ông Sơn, để hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội đang tham khảo ý kiến của doanh nghiệp để cùng doanh nghiệp tìm các thị trường mới như Trung Đông, Mỹ La tinh, Cu Ba. Đó là những thị trường trước kia doanh nghiệp đã xuất khẩu nhưng doanh nghiệp không chú trọng tới số lượng, thì giờ phải chú trọng hơn về kim ngạch.

Đồng thời, xem lại các FTA song phương, đa phương. Trên cơ sở đó phân tích và tìm kiếm khách hàng mới. “Dù điều này không dễ dàng vì châu Á hiện nay vẫn là thị trường tiêu thụ giấy và bột giấy lớn nhất thế giới nên việc tìm thị trường sang các nước trên là cả một vấn đề”, ông Sơn nói. Trước kia chúng ta là nước tiêu thụ sản phẩm giấy của Indonesia, Thái Lan, Malaysia, châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc… nay lại tìm cách xuất ngược sang họ thì đúng là bài toán khó.

“Hiệp hội xác định nhiệm vụ lớn trong 2023 là giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới do hiện nay chúng ta đang tập trung vào 3 thị trường chính là Trung Quốc, Mỹ, châu Âu. Vì vậy VPPA đang tiếp cận thị trường ngách bằng cách làm việc với Thương vụ Việt Nam tại các nước như châu Mỹ, Trung Đông và thông qua các Hiệp hội hàng tiêu dùng, Hiệp hội bán buôn bán lẻ ở các nước sở tại để kết nối cho doanh nghiệp”.

Trong dài hạn, ông Sơn cho rằng, để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho phát triển bền vững, Nhà nước cần khuyến khích đầu tư sản xuất bột giấy từ nguyên liệu trong nước với công nghệ hiện đại, bảo vệ môi trường. Sớm giải quyết sự mất cân đối trong đầu tư sản xuất, khuyến khích mở rộng về quy mô, hình thức và nâng cao chất lượng đào tạo…

Chú trọng đầu tư theo hướng “xanh”

Cùng với việc xúc tiến thương mại, nhiều chuyên gia cho rằng ngành giấy cần chú trọng tới các yếu tố xanh khi đầu tư. Bởi yêu cầu về “xanh hóa” quy trình sản xuất và sản phẩm không chỉ được đặt ra bởi khách hàng ở châu Âu, Nhật Bản, Mỹ… mà còn bởi khách hàng ở ASEAN cũng như người tiêu dùng ngay tại thị trường nội địa. “Xu hướng hiện nay, các khách hàng, thị trường đang chuyển sang ưu tiên các doanh nghiệp xanh. Những doanh nghiệp gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất, không áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên… có nguy cơ bị ngừng tiếp nhận đơn hàng hoặc bị từ chối đặt hàng”– ông Đặng Văn Sơn cho biết.

Thực tế, đáp ứng xu thế xanh của thế giới, nhiều doanh nghiệp đã chủ động đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại và luôn cập nhật công nghệ xử lý mới, bắt kịp xu hướng sản xuất thân thiện với môi trường. Chẳng hạn Công ty cổ phần Đông Hải Bến Tre đã chủ động nâng cấp, bảo dưỡng máy móc, thiết bị và cải tạo hệ thống xử lý nước thải, bảo vệ môi trường. Đặc biệt, với mục tiêu sản xuất ra những sản phẩm thân thiện với môi trường, doanh nghiệp này chỉ tập trung đầu tư vào sản xuất giấy bao bì công nghiệp và thùng carton; đồng thời thường xuyên xem xét việc nâng cấp, cải tạo các công trình bảo vệ môi trường, hệ thống xử lý nước thải,… Chính điều này đã giúp công ty luôn duy trì được khách hàng lớn trong bối cảnh đơn hàng sụt giảm hiện nay.

Tương tự, tại Tổng công ty Giấy Việt Nam (VINAPACO), ban lãnh đạo VINAPACO xác định sẽ tiếp tục đối diện nhiều thách thức trong năm 2023 khi nhiều nhà máy sản xuất giấy trên thế giới đi vào hoạt động trong khi nhu cầu yếu sẽ khiến giá bột giấy có xu hướng giảm. Vì thế, doanh nghiệp này cho biết sẽ tập trung đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các hệ thống máy móc thiết bị của Nhà máy Giấy Bãi Bằng, dự án cải tạo lò hơi động lực tại Nhà máy Điện và Công ty giấy Tissue Sông Đuống để tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, VINAPACO sẽ thực hiện đầu tư hoặc liên doanh liên kết với các đơn vị bên ngoài để đầu tư các hệ thống thiết bị sản xuất dăm mảnh để xuất khẩu cho các đối tác Nhật Bản sau khi hợp đồng mua bán dăm được ký kết.

Cũng để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh khi xuất khẩu, nhà máy sản xuất bao bì của Tetra Pak tại Bình Dương đã đầu tư áp dụng theo các tiêu chuẩn quốc tế, môi trường, giúp các sản phẩm tuân thủ nghiêm ngặt và chất lượng đồng nhất trong quá trình sản xuất vỏ hộp giấy tiệt trùng, không chỉ phục thị trường nội địa mà còn đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường tại ASEAN, Australia và New Zealand.

“Thực tế chứng minh rất rõ, doanh nghiệp nào tăng trưởng xanh thì có khả năng cạnh tranh càng ngày càng tốt hơn trên thương trường, cho nên xanh cũng trở thành động lực cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn tại, muốn cạnh tranh được trên thị trường thì phải xanh hóa, phải là doanh nghiệp xanh, nếu không thì không thể tồn tại phát triển được”, ông Đặng Văn Sơn chia sẻ.

Bên cạnh các giải pháp trên, theo ông Sơn, ngành giấy có lợi thế là đầu vào là giấy tái chế, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Việc tái sử dụng phế liệu giấy làm nguyên liệu mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và xã hội như giảm khai thác tài nguyên, giảm đi việc chặt phá rừng. Sản xuất giấy từ giấy tái chế giúp giảm tiêu thụ năng lượng, chất thải rắn, nước thải và khí thải so với sản xuất từ giấy từ bột nguyên sinh. Vì vậy trong dài hạn cần khuyến khích việc thu gom tái chế giấy.

Nguồn: congthuong.vn