Bản tin tổng hợp PPIA từ 18/9/2023 đến 22/9/2023

Ngày 26-09-2023
VPPA-VPPA-Bản tin tổng hợp thị trường giấy châu á hàng tuần

Giá bột nhập khẩu, bột bán lại (resale pulp) tăng ở Trung Quốc; khoảng 30-50 USD/tấn.

Giá bột nhập khẩu ở Trung Quốc đã tăng lên trên diện rộng, với giá bột bán lại trong nước tăng mạnh trong bối cảnh giá kỳ hạn tăng cao.

APP là nhà sản xuất đầu tiên tại thị trường Trung Quốc, thông báo tăng 50 USD/tấn vào thứ Tư ngày 20 tháng 9 đối với bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK) nhập khẩu từ Indonesia vào Trung Quốc. Việc tăng giá đã đưa giá chào bán BHK Indonesia của APP lên 600 USD/tấn.

Suzano và Arauco đã thông báo vào ngày hôm sau tăng giá BHK 30 USD/tấn, đưa giá chào tương ứng của họ đối với BHK Nam Mỹ lên 590 USD/tấn và 580 USD/tấn cho các lô hàng tháng 10.

Giá bột giấy bán lại tăng vọt: Giá BHK Nam Mỹ bán lại đã tăng 304 RMB (42 USD)/tấn trong hai tuần qua tại thị trường Trung Quốc, lên 5.090 RMB/tấn trong tuần này. Mức đó tương đương 599 USD/tấn sau khi khấu trừ 13% VAT và 150 RMB/tấn chi phí hậu cần. Các nhà máy và thương nhân vừa và nhỏ là những người mua chính của loại bán lại.

Giá bán lại cho các loại bột giấy quan trọng khác, như các loại bột kraft gỗ mềm đã tẩy trắng và không tẩy trắng (BSK và USK) và bột giấy hóa-nhiệt cơ đã tẩy trắng, cũng tăng vọt theo cách tương tự.

Giá bột gỗ mềm cũng tăng: Các giao dịch sôi động ở Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tác động mạnh tới việc tăng giá bột gỗ mềm.

Giá của hợp đồng tương lai tháng 1 năm 2024 phổ biến nhất hiện nay đã tiếp tục tăng trong tuần qua, đạt đỉnh 6.152 RMB/tấn trong tuần này. Mức đó tương đương với 713 USD/tấn chưa bao gồm VAT và 120 RMB/tấn chi phí hậu cần, mang đến cho các nhà đầu tư cơ hội chênh lệch giá và thuyết phục họ giành lấy khối lượng BSK có sẵn có giá dưới mức đó. Trong khi, hợp đồng tháng 1 năm 2024 thanh toán ở mức 6.102 RMB/tấn vào thứ Năm ngày 21 tháng 9, tăng từ mức 358 RMB/tấn so với cùng ngày hai tuần trước.

Arauco cũng đã tăng giá bột gỗ thông radiata thêm 40 USD/tấn vào thứ Năm, nâng giá chào bán loại này lên 730 USD/tấn.

BSK của Nga đã tăng 40 USD/tấn trong hai tuần qua, đóng cửa ở mức 680-710 USD/tấn.

Giá NBSK từ Canada đã tăng 20-40 USD/tấn lên 700-740 USD/tấn. NBSK Bắc Âu cũng tăng 40 USD/tấn lên 680-720 USD/tấn.

USK được cho là đang bán với giá 620-660 USD/tấn, tăng 20 USD/tấn.

Giá bìa tái chế, giấy cao cấp ở Đông Nam Á giảm trong quý 3; các nhà sản xuất chuẩn bị tăng giá

Giá bìa làm bao bì tái chế và giấy cao cấp ở Đông Nam Á đã giảm trong quý 3 năm nay, nhưng các nhà sản xuất giấy và bìa đang chuẩn bị tăng giá, do chi phí sợi tăng, dự đoán nhu cầu tăng theo mùa và giá giấy và bìa tăng cao ở thị trường lân cận Trung Quốc.

Các nền kinh tế lớn ở Đông Nam Á phần lớn ghi nhận hiệu quả kinh tế-yếu hơn-dự kiến kể từ đầu năm nay, khiến một số tổ chức tài chính và ngân hàng trung ương phải điều chỉnh lại dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023.

Tăng trưởng xuất khẩu hàng công nghiệp giảm đã gây tổn hại cho các nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu như Việt Nam và Malaysia trong khu vực. Nhu cầu bên ngoài yếu đi đã kìm hãm hoạt động sản xuất công nghiệp, làm ảnh hưởng đến nhu cầu về vật liệu đóng gói.

Trong khi đó, Đông Nam Á đã chứng kiến sự mở rộng liên tục của năng lực sản xuất giấy tái chế, làm trầm trọng thêm vấn đề cung vượt cầu đang diễn ra.

Giấy Cửu Long khởi động sản xuất thử máy xeo sản xuất giấy làm thùng sóng tái chế mới có công suất 300.000 tấn/năm tại nhà máy ở Selangor, Malaysia vào đầu tháng 9. Đây là máy xeo (BM) thứ hai được đưa vào hoạt động tại địa điểm này. Máy xeo đầu tiên, công suất 600.000 tấn/năm giấy làm thùng sóng, đã được khởi động vào cuối tháng Năm.

Cho đến nay, Công ty lớn nhất Châu Á này đã bán phần lớn sản lượng của hai BM ở thị trường Malaysia hoặc sang các thị trường khác ngoài Trung Quốc, nhằm tránh gây thêm áp lực giảm giá giấy ở thị trường Trung Quốc.

Được thúc đẩy bởi chính sách thuế nhập khẩu bằng 0 có hiệu lực vào đầu năm nay, nhập khẩu giấy làm thùng sóng tái chế của Trung Quốc tiếp tục duy trì ở mức cao. Dữ liệu của Hải quan Trung Quốc cho thấy nước này đã nhập khẩu 2,45 triệu tấn testliner, tăng 70,78% so với cùng kỳ năm ngoái và 2,29 triệu tấn giấy làm lớp sóng, tăng 52,35% so với cùng kỳ năm trước, tính đến tháng 8.

Khoảng một nửa lượng tiêu thụ giấy làm lớp sóng và 2/3 lượng testliner nhập khẩu của Trung Quốc đến từ các nước Đông Nam Á. Khối lượng giao dịch khổng lồ đã giữ cho hai thị trường khu vực này gắn bó chặt chẽ với nhau.

Giá giấy làm thùng sóng tái chế giảm: Tại Đông Nam Á, giá giấy làm lớp sóng tái chế nhập khẩu giảm từ 340-410 USD/tấn trong tháng 6 xuống còn 330-400 USD/tấn trong tháng 7.

Sau khi giá liên tục giảm trong những tháng gần đây, thị trường giấy làm thùng sóng tái chế của Trung Quốc có dấu hiệu chạm đáy trong nửa đầu tháng 8. Khoảng giữa tháng 8, các nhà sản xuất giấy hàng đầu Trung Quốc công bố mức tăng khiêm tốn 30-50 RMB/tấn. Một số nhà sản xuất giấy ở Việt Nam và Malaysia đã nhanh chóng phản ứng bằng cách tăng giá niêm yết lên tới 10 USD/tấn, nhưng động thái này đã bị cả khách hàng Trung Quốc và địa phương gạt sang một bên. Thay vào đó, nhu cầu trong nước chậm khiến phạm vi giá thu hẹp xuống 20 USD, đẩy giá xuống còn 330-380 USD/tấn trong tháng 8.

Động lực tăng giá giấy làm thùng sóng tái chế trở nên rõ ràng hơn ở Trung Quốc kể từ đầu tháng 9. Sự thay đổi này đã khiến một số nhà máy ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi có thể thấy giá giấy thấp nhất trong khu vực, lại yêu cầu tăng giá, thường là 10-15 USD/tấn cho xuất khẩu và 8-12 USD/tấn cho đơn hàng nội địa.

Việc tăng giá cũng một phần được thúc đẩy bởi chi phí sợi tăng. Giá thùng sóng cũ nhập khẩu (OCC) đã tăng lên ở Đông Nam Á kể từ cuối tháng 6. Giá US OCC 11 là 180-185 USD/tấn, tăng 25 USD/tấn so với ba tháng trước. OCC 95/5 châu Âu được bán với giá 140-150 USD/tấn, tăng 15-20 USD so với giữa tháng 6.

Trong khi các nhà máy Việt Nam đã phần nào thực hiện tăng giá giấy làm thùng sóng tái chế trong tháng 9, giá tại các thị trường lớn khác ở Đông Nam Á nhìn chung vẫn ổn định.

Nguồn cung bổ sung tại Malaysia nói riêng đã giữ giá trong nước ở mức thấp. Do đó, giá nhập khẩu giấy làm lớp sóng tái chế vẫn dao động trong khoảng 330-380 USD/tấn ở Đông Nam Á. Tương tự, giá testliner nhập khẩu đã giảm từ 360-430 USD/tấn trong tháng 6 xuống còn 350-410 USD/tấn trong tháng 7. Giá giảm xuống còn 350-400 USD/tấn trong tháng 8 và hầu như không thay đổi ở mức đó trong tháng 9. Giá nhập khẩu giấy lớp phẳng mặt kraft giảm từ 460-560 USD/tấn trong tháng 6 xuống còn 450-550 USD/tấn trong tháng 7, sau đó giảm xuống còn 440-540 USD/tấn trong tháng 8 và tháng 9.

Giá duplex phục hồi: Sau khi giảm mạnh trong quý 2 năm nay, giá duplex tráng phấn lưng xám nhập khẩu ở Đông Nam Á tiếp tục giảm trong hai tháng đầu quý 3, giảm từ mức 450-560 USD/tấn trong tháng 6 xuống 430-550 USD/tấn vào tháng 7 và sau đó xuống 420-540 USD/tấn vào tháng 8. Giá chủ yếu giảm do nguồn cung dồi dào từ Malaysia và Hàn Quốc và do tác động dây chuyền của sự sụt giảm giá bìa tráng phấn màu ngà lảm từ sợi nguyên chất từ Trung Quốc trước đó.

Tình thế đã thay đổi vào tháng 9 khi các nhà cung cấp Hàn Quốc và Malaysia đẩy mạnh mức tăng 30-40 USD/tấn, đạt 450-540 USD/tấn.

Yếu tố chính góp phần vào sự tăng vọt này là sự phục hồi của giá bìa tráng phấn màu ngà ở Trung Quốc. Giá loại làm từ bột nguyên chất này bắt đầu tăng trở lại tại thị trường Trung Quốc vào tháng 7, và sau đó các nhà sản xuất Trung Quốc đã tăng giá xuất khẩu loại này, giảm bớt áp lực lên duplex tráng phấn làm từ bột tái chế.

Giá giấy cao cấp giảm: Giá bột gỗ sụt giảm trong quý 2/2023 tiếp tục là lực cản đối với giá giấy cao cấp tại Đông Nam Á vào đầu quý 3.

Giá nhập khẩu giấy cao cấp tráng phấn (CFP) trong khu vực đã giảm từ 730-850 USD/tấn trong tháng 6 xuống còn 700-800 USD/tấn trong tháng 7, trong khi giá giấy cao cấp không tráng phấn (UFP) nhập khẩu giảm từ 800-880 USD/tấn trong tháng 6 xuống 750-830 USD/tấn trong tháng 7.

Thị trường có dấu hiệu chạm đáy trong tháng 8, được hỗ trợ bởi giá bột gỗ tiếp tục phục hồi và giá giấy cao cấp ở nước láng giềng Trung Quốc này tăng.

Giá bột gỗ tiếp tục tăng với tốc độ nhanh hơn trong tháng 9, khiến các nhà sản xuất giấy cao cấp hàng đầu ở Đông Nam Á phải đưa ra thông báo tăng giá.

Các nhà sản xuất UFP lớn ở Trung Quốc cũng yêu cầu tăng giá 20-40 USD/tấn cho các đơn hàng xuất khẩu mới trong tháng 9.

APP Indonesia, APRIL, Asia Symbol thông báo tăng giá UFP trên toàn cầu

Asia Pulp & Paper (APP) Indonesia, Asia Pacific Resources International (APRIL) và chi nhánh Asia Symbol có trụ sở tại Trung Quốc đã công bố ý định tăng giá giấy cao cấp không tráng phủ (UFP) trên toàn cầu.

APP Indonesia đã ấn định mức tăng 50 USD/tấn và có hiệu lực ngay lập tức đối với tất cả các đơn đặt hàng mới cho toàn bộ dòng sản phẩm UFP của họ vào thứ Tư ngày 20 tháng 9.

Tuần này APRIL và Asia Symbol đã công bố đề xuất tăng giá toàn cầu thêm 30 USD/tấn cho tất cả các đơn đặt hàng UFP từ tháng 10.

Cả ba nhà sản xuất đều cho rằng việc tăng giá là do chi phí bột giấy tiếp tục tăng, với giá bột kraft gỗ cứng tẩy trắng, nguồn cung cấp chính cho sản xuất UFP, liên tục tăng sau khi chạm mức thấp nhất trong 30 tháng vào tháng 5.

Giá các nguyên liệu thô khác, cụ thể là hydro peroxide và alkyl ketene dimer (AKD) cũng tăng.

Công ty hóa chất toàn cầu Kemira đã công bố vào thứ Sáu ngày 15 tháng 9 rằng họ sẽ thực hiện tăng giá từ 10-30% đối với một số sản phẩm gia keo gốc sáp AKD ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, với lý do chi phí tăng đối với các nguyên liệu thô chính, năng lượng, hậu cần và các yêu cầu tuân thủ về sức khoẻ và an toàn.

Giá hydrogen peroxide cũng tăng ở Trung Quốc kể từ đầu nửa cuối năm nay, do nguồn cung thắt chặt sau khi một số cơ sở ngừng hoạt động do các vụ tai nạn liên tiếp xảy ra.

APRIL và Asia Symbol cũng kỳ vọng sẽ thấy lượng đơn đặt mua giấy theo mùa từ các nhà xuất bản ở châu Á và nhu cầu giấy giao ngay khá lớn từ các sự kiện chính trị, cụ thể là chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 ở Indonesia.

Tuần trước, Asia Symbol đã thông báo cho khách hàng tại Trung Quốc về kế hoạch tăng giá UFP thêm 300 RMB (41 USD)/tấn từ tháng 10, trên mức tăng 200 RMB/tấn trước đó vào tháng 9.

 

Kuantum Papers lên lịch nâng cấp PM 1, nhằm mục đích khai thác nhu cầu giấy đặc biệt ở Ấn Độ

Kuantum Papers đã hoàn thành việc cải tạo PM 2 tại nhà máy Hoshiarpur ở Punjab, miền bắc Ấn Độ, nhưng việc đại tu PM 1 đã bị đẩy sang cuối tháng 11 thay vì tháng 9.

PM 1 và PM 2 sản xuất giấy in, giấy viết. Sau khi cải tạo, công ty sẽ đáp ứng nhu cầu giấy đặc biệt trong nước, với ít nhất 25% sản lượng chuyển sang giấy đặc biệt.

Việc đại tu PM 1 bị hoãn lại do một số linh kiện máy móc từ các nhà cung cấp trong nước vẫn chưa về tới. Nguồn tin cho biết hiện tại chúng dự kiến sẽ được giao vào cuối tháng 10.

Công ty đang có kế hoạch ngừng hoạt động PM 1 trong 20 ngày vào tháng 11 để tiến hành đại tu, trong đó sẽ yêu cầu thay thế hòm phun bột, hệ ép ướt 3 mặt ép và lưới.

Pavan Khaitan, giám đốc điều hành tại Kuantum Papers, cho biết thị trường giấy đặc biệt đang ở giai đoạn non trẻ ở nước này. Ông cho biết thị trường đã cho thấy tiềm năng tăng trưởng một phần nhờ lệnh cấm của chính phủ áp đặt vào năm ngoái đối với một số mặt hàng nhựa sử dụng một lần.

Khaitan cũng cho biết, nhu cầu về vật liệu đóng gói bằng giấy từ lĩnh vực thực phẩm dự kiến sẽ tăng đáng kể và công ty đang tập trung vào các sản phẩm có thể thay thế vật liệu đóng gói bằng nhựa. Đầu ra của các máy xeo sẽ bao gồm giấy làm cốc và giấy nền cho ống hút giấy.

Chi phí cải tạo PM 1 và PM 2 mỗi chiếc là 2,4 triệu rupee Ấn Độ. Scan Machinery ở miền Nam Ấn Độ thực hiện công việc đại tu.

Công suất của PM 2 hiện nay là 50 tấn/ngày. Sau khi công việc hoàn thành, công suất của PM 1 sẽ tăng lên 55 tấn/ngày.

 

Cơ quan giám sát thương mại Indonesia khuyến nghị mở rộng biện pháp tự vệ đối với giấy thuốc lá nhập khẩu

Ủy ban An ninh Thương mại Indonesia (KPPI) đã đề xuất gia hạn thuế tự vệ hiện tại của nước này đối với giấy thuốc lá và giấy bọc đầu hút không xốp nhập khẩu thêm ba năm nữa cho đến ngày 29 tháng 11 năm 2026.

Giấy cuốn thuốc lá là một loại giấy đặc biệt dùng để quấn thuốc lá. Giấy bọc đầu hút không xốp là lớp ngoài cùng của đầu hút thuốc lá bọc đầu lọc. Chúng thường được phân loại theo mã 4813.20.21, 4813.20.23, 4813.20.31, ex4813.20.32, 4813.90.11, ex4813.90.19, 4813.90.91 và ex4813.90.99 trong Biểu thuế hải quan của Indonesia.

Chính phủ Indonesia lần đầu tiên áp dụng thuế tự vệ đối với việc nhập khẩu các sản phẩm bị điều tra này trong thời gian hai năm kể từ ngày 30 tháng 11 năm 2021.

Thuế tự vệ được ấn định ở mức 4.000.000 Rupiah/tấn (259,79 USD/tấn) trong 12 tháng đầu tiên và giảm nhẹ xuống còn 3.961.950 Rupiah/tấn trong năm thứ hai.

Vào ngày 23 tháng 6, KPPI đã khởi xướng một cuộc điều tra về biện pháp tự vệ sắp hết hiệu lực theo đơn yêu cầu của Hiệp hội Giấy và Bột giấy Indonesia thay mặt cho PT Bukit Muria Jaya, một nhà sản xuất giấy đặc biệt liên quan đến thuốc lá trong nước.

KPPI đã kết luận hồi đầu tháng này rằng hành động tự vệ tiếp tục là cần thiết để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại hoặc mối đe dọa nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa của Indonesia.

Báo cáo cho thấy nhập khẩu giấy thuốc lá và giấy bọc đầu hút không xốp của Indonesia tiếp tục tăng từ năm 2020 đến năm 2022 bất chấp việc áp dụng biện pháp tự vệ, với Việt Nam, Áo, Trung Quốc, Tây Ban Nha và Hàn Quốc là các nhà cung cấp hàng đầu.

Ủy ban khuyến nghị rằng thuế tự vệ sẽ được áp dụng thêm ba năm nữa kể từ ngày 30 tháng 11 năm 2023. Mức đề xuất là 3.923.900 Rupiah/tấn trong 12 tháng đầu tiên, tiếp theo là 3.885.850 Rupiah/tấn trong năm thứ hai và 3.847.800 Rupiah trong năm thứ ba. năm.

Chính phủ Indonesia hiện sẵn sàng tham vấn với các quốc gia có lợi ích đáng kể đối với hàng hóa bị điều tra trước khi chính thức gia hạn biện pháp tự vệ.

 

BỘT NHẬP KHẨU VÀO TRUNG QUỐC                                                

Thực giá, USD/tấn CIF tại các cảng chính.

Giá hiện hành So với tuần trước
15/09/2023 08/09/2023 01/09/2023 (%)
HÀNG TUẦN
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng (BSK)
  NBSK – Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương Bắc 670 670 668 0,00%
HAI TUẦN/LẦN
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng
  Gỗ thông Radiata (Chile) 675 675 655 0,00%
  BSK Nga* 655 655 645 0,00%
Bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK)
  Gỗ bạch đàn 550 550 530 0,00%
  BHK Nga* 530 530 510 0,00%
Bột kraft gỗ mềm không tẩy (USK)
  Chile và Bắc Mỹ 630 630 600 0,00%
  Nga 560 560 540 0,00%
Bột hoá nhiệt cơ tẩy trắng (BCTMP)
  Gỗ cứng (độ trắng 80%) 475 475 475 0,00%
  Gỗ mềm (độ trắng 75%) 485 485 485 0,00%
HÀNG THÁNG
Bột làm bỉm (Kraft phương bắc Mỹ) 830 830 830 0,00%

GHI CHÚ: *  BSK Nga và BHK Nga là giá CIF tới các cảng chính của Trung Quốc.

 

NHẬP KHẨU BỘT VÀO ĐÔNG Á                                                                  

Thực giá, USD/tấn CIF tại các cảng chính Ở Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Nam Á.

Tháng 08 / 2023 Tháng 07 / 2023 Tháng 08/ 2022 So tháng trước
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng
  Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương Bắc 680 665 1037,5 2,26%
  Thông Radiata (Chile) 667,5 652,5 1015 2,30%
  Thông phương Nam (Mỹ) 647,5 635,5 1005 1,89%
Bột kraft gỗ cứng tẩy trắng
  Bạch đàn 522,5 507,5 900 2,96%
  Acacia (Indonesia) 515 500 900 3,00%
  Gỗ cứng trộn lẫn phương Bắc 520 505 900 2,97%
  Gỗ cứng trộn lấn phương Nam 520 505 900 2,97%
Bột gỗ mềm không tẩy trắng (Chile và Bắc Mỹ) 592,5 592,5 852,5 0,00%
BCTMP
  Aspen 502,5 482,5 820 4,15%
  Thông 497,5 477,5 807,5 4,19%

 

THÙNG SÓNG CŨ (OCC) NHẬP KHẨU VÀO ĐÔNG NAM Á

Giá USD/tấn CIF tại các cảng chính Đông Nam Á (trừ Indonesia) và Đài Loan

15/09/2023 01/09/2023 18/08/2023 So với 2 tuần trước
OCC (11) từ Mỹ 182,5 177,5 177,5 2,82%
OCC (90/10) từ Châu Âu 140 132,5 132,5 5,66%
OCC (95/5) từ Châu Âu 145 137,5 137,5 5,45%
OCC Nhật Bản 147,5 142,5 142,5 3,51%

Nguồn: PPIA – Ban biên tập VPPA

Bình luận của bạn

Tin liên quan

Tin đã đăng