Cơ hội gia tăng đơn hàng từ thị trường châu Âu

Ngày 25-09-2023
VPPA-Dù đang đứng trước rất nhiều thách thức liên quan đến những yêu cầu, tiêu chuẩn mới, song Việt Nam vẫn là điểm đến thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư, nhà nhập khẩu đến từ châu Âu (EU). Điều này mở ra cơ hội cho Việt Nam lấy lại đà tăng trưởng sau thời gian bị sụt giảm trước những tác động của kinh tế toàn cầu.

Doanh nghiệp nhập khẩu tìm kiếm nguồn hàng Việt tại Triển lãm Kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế diễn ra tại TPHCM, 13-15/9/2023. Ảnh: T.L

Nhiều thách thức mới

Kể từ đầu năm 2023, nguy cơ suy thoái kinh tế, lạm phát và lãi suất vẫn duy trì ở mức cao khiến nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu hàng hóa tại EU sụt giảm đã tác động đáng kể đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam với khu vực thị trường này. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, 8 tháng đầu năm 2023, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và EU đạt 38,8 tỷ USD, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó xuất khẩu sang EU đạt 29 tỷ USD, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm 2022.

Theo Bộ Công Thương, tình hình quốc tế dự báo vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là các bất ổn địa chính trị khu vực và toàn cầu, tiềm ẩn nhiều rủi ro suy thoái kinh tế, gián đoạn chuỗi cung ứng. Khả năng kinh tế EU tăng trưởng chậm lại và lạm phát tuy đã điều chỉnh nhưng vẫn ở mức cao sẽ tác động đáng kể đến chi tiêu của người tiêu dùng. Đặc biệt nhu cầu tiêu thụ hàng hóa không thiết yếu của EU nhiều khả năng sẽ giảm, ảnh hưởng đến nhu cầu nhập khẩu.

Bên cạnh đó, EU đang đẩy mạnh áp dụng các biện pháp phi thuế quan, đặc biệt siết chặt các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật về môi trường, khí hậu, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững. Trong khi đó, bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ, Bộ Công Thương cho biết, nhiều DN Việt Nam bị giới hạn về quy mô, công nghệ và vốn để có thể đáp ứng các yêu cầu quy định liên tục thay đổi từ phía thị trường EU. Đặc biệt là những quy định liên quan đến phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, lao động.

Theo bà Hiền, ngay trong năm nay, EU sẽ áp dụng 2 đạo luật quan trọng có ảnh hưởng lớn đến các DN xuất khẩu của Việt Nam. Thứ nhất là cơ chế điều chỉnh carbon biên giới (CBAM) sẽ áp dụng thử nghiệm trong tháng 10 tới với 6 ngành, sau 2-3 năm sẽ kết thúc giai đoạn thử nghiệm và mở rộng ra các ngành, lĩnh vực khác. Thứ hai là đạo luật bảo vệ, chống phá rừng đã công bố từ tháng 5/2023, theo đó những hàng hóa không chứng minh được rằng không sản xuất trên phần đất rừng bị tàn phá thì sẽ phải chịu mức thuế 4%.

Ngoài ra, một dự luật khác ở EU chưa được áp dụng nhưng ở cấp các nước thành viên như Pháp, Đức đã có quy định rất cụ thể, là kiểm soát chuỗi cung ứng. Dự luật này được áp dụng trên lãnh thổ EU nhưng có liên quan trực tiếp đến tất cả DN tham gia vào chuỗi cung ứng cho dòng sản phẩm. Do đó, bà Hiền khuyến nghị các DN cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ rất sớm.

Lấy lại đà tăng trưởng

Mặc dù thách thức phía trước là rất lớn, nhưng Việt Nam vẫn còn rất nhiều cơ hội để lấy lại đà tăng trưởng tại thị trường EU. Trước tiên là lợi thế từ Hiệp định EVFTA với 70% dòng thuế về 0 ngay lập tức và lộ trình từ 3-10 năm đưa 100% dòng thuế về 0. Trong khi đó, bà Hiền nhìn nhận, về bản chất, cơ cấu mặt hàng giữa Việt Nam và EU không có xung đột mà là bổ trợ cho nhau. Bên cạnh đó, theo thống kê của Cơ quan thống kê châu Âu, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU mới chỉ chiếm 1,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của thị trường này. Trong khi EU hiện là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 thế giới. Do đó, con số 1,7% của Việt Nam hiện vẫn chưa thấm vào đâu.

Ngoài ra, những năm gần đây, EU cũng như một số đối tác thương mại lớn khác đã điều chỉnh chính sách thương mại, đặt trọng tâm ở khu vực Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. Trong đó không thể phủ nhận vai trò dẫn dắt của Việt Nam trong ASEAN. Chính vì vậy, rất nhiều nhà đầu tư cũng như nhà nhập khẩu từ châu Âu đang quan tâm rất lớn tới thị trường Việt Nam. “Thời gian gần đây chúng ta đã chứng kiến sự dịch chuyển chuỗi cung ứng về khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam” – bà Nguyễn Thảo Hiền chia sẻ.

Ở góc độ nhà đầu tư, ông Vanlentin Trần, Tổng giám đốc Andros Asia – tập đoàn chế biến và xuất khẩu nông sản của Pháp cũng đưa ra cam kết gắn bó và tiếp tục mở rộng tại Việt Nam. Ông Vanlentin Trần đánh giá, với nguồn cung đa dạng của các loại trái cây nhiệt đới chất lượng cao, Andros đã mua lại 2 nhà máy tại ĐBSCL để chế biến trái cây xuất khẩu. Đến nay, Andros đã mua gần 30.000 tấn trái cây tươi và xuất khẩu 11.000 tấn trái cây. Trong đó, việc bán 3.000 tấn thanh long đỏ cho thương hiệu cà phê Starbucks của Mỹ là một trong những câu chuyện thành công điển hình của Andros trong việc đưa trái cây Việt Nam ra thị trường thế giới.

Ông Valentin Trần cho biết, kế hoạch của Andros Asia trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chế biến trái cây và các sản phẩm giá trị gia tăng.

Bà Hoàng Tri Mai, Tổng giám đốc Tập đoàn Airbus Việt Nam, Lào và Campuchia cũng cho biết, Airbus đang làm việc chặt chẽ với các DN Việt Nam cho các đơn hàng mới liên quan đến sản xuất linh kiện, phụ tùng máy bay, mở rộng hơn nữa chuỗi cung ứng đáp ứng các tiêu chuẩn cao nhất về chất lượng, an toàn và phát triển bền vững. Cụ thể, Airbus đang hợp tác với Artus (Meggitt) Việt Nam tại TPHCM trong cung cấp thiết bị cơ điện cho dòng máy bay A320, A330, A350; Nikkiso Việt Nam tại Hà Nội trong sản xuất cấu trúc conposite cho máy bay A320 Sharklet và các linh kiện cho máy bay A330neo và A350.

Theo bà Mai, triển vọng phát triển tích cực và việc Airbus gia tăng sản lượng máy bay sẽ thúc đẩy hơn nữa hoạt động của các nhà cung ứng của Airbus tại Việt Nam, đồng thời mở cơ hội cho các DN tiềm năng tham gia hợp tác cùng. Theo đó, các DN này cần đáp ứng yêu cầu khắt khe của Airbus về tính cạnh tranh, chất lượng sản phẩm, các tiêu chuẩn vận hành và cam kết bền vững trong ngành công nghiệp hàng không.

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS):

5 giải pháp thích ứng của ngành dệt may Việt Nam

Cơ hội gia tăng đơn hàng từ thị trường châu Âu
Ông Vũ Đức Giang.

Để thích ứng với yêu cầu mới của các nhãn hàng tại thị trường EU, ngành dệt may Việt Nam đã đưa ra 5 giải pháp. Thứ nhất, VITAS tổ chức các hội thảo chuyên đề với sự tham gia của chuyên gia nước ngoài, các nhãn hàng để cung cấp thông tin cho DN và giúp DN chủ động đáp ứng các yêu cầu của nhãn hàng. Thứ hai, VITAS khuyến cáo các DN trong ngành đầu tư vào hạ tầng cơ sở, đáp ứng các yêu cầu của tổ chức đánh giá mà các nhãn hàng thuê. Trong đó có yêu cầu về môi môi trường xanh, môi trường an toàn, đầu tư vào công nghệ tự động hóa. Hiện nay có rất nhiều nhà máy đã sử dụng robot trong một số công đoạn trong sản xuất; đầu tư hệ thống phần mềm để đảm bảo tính minh bạch trong phát triển DN và chứng minh cho các nhãn hàng về sự minh bạch đó.

Thứ ba là nâng cao trách nhiệm xã hội của DN đối với người lao động và chứng minh sự minh bạch trong sử dụng lao động. Thứ tư là đào tạo nguồn lực để thích ứng được với yêu cầu của hội nhập quốc tế, đặc biệt là điều khoản trong các FTA và cam kết của Chính phủ Việt Nam với các nước trong vấn đề xuất khẩu sản phẩm, tính an toàn, minh bạch và xuất xứ của sản phẩm. Thứ năm là cùng phát triển liên kết chuỗi, kêu gọi đầu tư vào phần cung thiếu hụt để đảm bảo phát triển bền vững cho ngành.

Ông Jean Jacques Bouflet, Phó Chủ tịch phụ trách Chính sách tại EuroCham:

Việt Nam là trung tâm quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Cơ hội gia tăng đơn hàng từ thị trường châu Âu
Ông Jean Jacques Bouflet.

Nhiều nhà phân phối và bán lẻ trên thế giới xác định Việt Nam là trung tâm quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu nhằm mục tiêu đa dạng hóa và củng cố chuỗi cung ứng của họ. Kể từ khi EVFTA được ký kết, các công ty từ Liên minh châu Âu đã đầu tư hơn 26 tỷ USD vào khoảng 2.250 dự án tại Việt Nam. Ví dụ, vào năm ngoái, Tập đoàn Lego của Đan Mạch đã được cấp giấy phép đầu tư hơn 1 tỷ USD vào một nhà máy theo hướng xanh, bền vững và thân thiện với môi trường với quy mô 44 hecta tại Bình Dương. Tương tự, Tập đoàn Adidas của Đức đã hợp tác với 51 nhà cung cấp tại Việt Nam, góp phần tạo công ăn việc làm cho hơn 190.000 lao động. Điều này là minh chứng cho sự phát triển nhanh chóng và sâu sắc trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp của Liên minh châu Âu và Việt Nam, xuất phát từ các yếu tố địa chính trị và nhu cầu mở rộng thị trường sang châu Á.

Nhận biết được xu thế đa dạng hóa chuỗi cung ứng và phát triển bền vững, EuroCham cam kết đóng góp vào việc khai thác tiềm năng của EVFTA bằng cách triển khai các chiến dịch nâng cao nhận thức về lợi ích của hiệp định và tổ chức các hội thảo giúp thúc đẩy mối liên kết trực tiếp giữa các nhà cung cấp Việt Nam và người tiêu dùng đến từ châu Âu. Đặc biệt, EuroCham tập trung vào việc xây dựng năng lực, đào tạo nâng cao nhận biết về EVFTA cho các thành viên, kèm theo các nền tảng chia sẻ kiến thức, đảm bảo họ được trang bị đủ để tận dụng các lợi ích của hiệp định này.

Ông Nguyễn Duy Thuận, Tổng giám đốc Tập đoàn Lộc Trời:

Nỗ lực hết mình, doanh nghiệp chắc chắn sẽ thích ứng được các yêu cầu thị trường

Cơ hội gia tăng đơn hàng từ thị trường châu Âu
Ông Nguyễn Duy Thuận.

Là một DN xuất khẩu gạo uy tín đang tiên phong xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững tại Việt Nam, ông Nguyễn Duy Thuận, Tổng giám đốc Tập đoàn Lộc Trời đã chia sẻ với Tạp chí Hải quan về những giải pháp thích ứng với những yêu cầu mới của thị trường.

Thưa ông, châu Âu là một trong những thị trường có tiêu chuẩn khắt khe hàng đầu thế giới đối với hàng nhập khẩu. Việc Lộc Trời đưa thành công sản phẩm gạo mang thương hiệu “Cơm Việt Nam Rice” vào 2 hệ thống siêu thị hàng đầu của Pháp hẳn là một việc không hề dễ dàng. Xin ông chia sẻ đôi chút về điều này?

Trong đơn đặt hàng đầu tiên vào năm 2022, yêu cầu đầu tiên mà châu Âu đưa ra cho Lộc Trời là phải ăn được. Và để “ăn được” theo tiêu chuẩn của châu Âu, Lộc Trời đã phải trải qua 300 bài kiểm tra với hàng loạt tiêu chuẩn của các công ty giám định. Sau khi đã được chứng nhận là “ăn được”, Lộc Trời tiếp tục nhận thêm khoảng 80 yêu cầu khác, như trồng lúa có trách nhiệm, bao gồm trách nhiệm với môi trường, trách nhiệm với trẻ em, phụ nữ, với người tàn tật, với nông dân… Các yêu cầu cứ liên tục được đặt ra cho đến khi sản phẩm có thể vào được châu Âu.

Trước rất nhiều yêu cầu như vậy, Lộc Trời đã làm cách nào để có thể đáp ứng?

Để trồng lúa bán cho châu Âu thì không thể giữ một cánh đồng với rất nhiều thửa ruộng manh mún. Do đó, việc đầu tiên chúng tôi làm là tổ chức lại toàn bộ ruộng lúa thành cánh đồng mẫu lớn. Một số cánh đồng còn phải ngăn cách bằng hoa để ngăn cản sự xâm lấn của các chất mà châu Âu không chấp nhận.

Tiếp theo, chúng tôi đã thực hiện huấn luyện cho bà con nông dân. Khó khăn nằm ở chỗ nông dân Việt Nam luôn cho rằng mình đã có 3.000 năm trồng lúa và trồng lúa rất giỏi. Nhưng phương thức trồng lúa trong 3.000 năm đó không phải là cái mà châu Âu mong muốn. Do đó, phải chuyển đổi quy trình và thói quen trồng lúa này. Để làm được việc này, người của Lộc Trời phải ra tận cánh đồng, đặc biệt ở ĐBSCL nhiều nơi không có đường bộ mà phải đi bằng ghe.

Đội ngũ của Lộc Trời phải cung cấp các kiến thức để người nông dân chấp nhận, từ đó thay đổi thái độ và trao thưởng để thay đổi thói quen canh tác trên đồng ruộng theo đúng tiêu chuẩn.

Sau cùng, Lộc Trời đã quyết định áp dụng tiêu chuẩn canh tác lúa gạo bền vững (SRP). Trong tất cả các tiêu chuẩn hiện nay, SRP là tiêu chuẩn duy nhất đáp ứng được cả yêu cầu của Mỹ và châu Âu, và nếu đạt được SRP100 thì sẽ đáp ứng cả yêu cầu của Nhật Bản. Điều này là rất khó, nhưng may mắn là các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, nếu ĐBSCL áp dụng SRP thì nhiệt độ toàn cầu sẽ giảm xuống nửa độ. Đây chính là điều mà Lộc Trời đã nói với bà con nông dân và nhận được sự ủng hộ rất lớn trong việc áp dụng SRP. Nhờ đó, Lộc Trời hiện là đơn vị duy nhất trên thế giới đạt SRP100, được chứng nhận bởi Viện Nghiên cứu Lúa gạo thế giới IRRI và các cơ quan kiểm định độc lập quốc tế và đã duy trì được số điểm tối đa này trong 4 năm liên tục kể từ năm 2020.

Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc của châu Âu, Lộc Trời đã áp dụng QR code trên đồng ruộng, áp dụng SAP (hệ thống quản trị dữ liệu và phân tích tập trung), IFRS (chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế) trong nhà máy và áp dụng QR code trên toàn bộ hệ thống phân phối. Tât cả được tích hợp vào một siêu ứng dụng để quản lý nông nghiệp.

Ngoài những vấn đề kể trên, khó khăn lớn nhất khi bán hàng cho châu Âu chính là thời hạn công nợ lên tới 15 tháng. Bởi sau khi đầu tư cho nông dân thì phải mất tới 4 tháng mới cho thu hoạch. Tiếp đến là 2 tháng để sản xuất và đưa hàng ra cảng và 3 tháng sau hàng mới tới châu Âu. Khi gạo đã lên kệ siêu thị, chúng tôi tiếp tục phải chờ 6 tháng mới được thanh toán.

Trong khi đó, ngân hàng Việt Nam không cho vay để trồng lúa, không cho vay đầu tư vào tín chỉ carbon, DN chỉ được vay ngắn hạn. Do đó, đây chính là khó khăn lớn nhất của Lộc Trời cũng như các DN khi bán hàng vào châu Âu. Còn nếu không chấp nhận tình trạng bị kẹt vốn kéo dài như vậy, DN phải bán hàng cho các nhà phân phối và chấp nhận mất khoảng 30-50% doanh thu và 90% lợi nhuận.

Từ những giải pháp đã thực hiện và kết quả đạt được đã mang lại bài học như thế nào và ông có kiến nghị gì để hỗ trợ tốt hơn cho Lộc Trời cũng như các DN xuất khẩu sang châu Âu trong thời gian tới?

Thành công của Lộc Trời trong việc bán gạo cho châu Âu có vai trò rất lớn của các tham tán thương mại Việt Nam tại châu Âu. Như trong đơn hàng với Pháp vừa rồi, từ ngày nhận được yêu cầu của Carrefour đến khi hàng lên kệ là 2 tháng 20 ngày. Trong thời gian đó, với sự hỗ trợ của tham tán thương mại, Lộc Trời đã có 18 cuộc trao đổi với Carrefour. Hiện gạo của Lộc Trời đang được bán với giá tương đương 4.000 USD/tấn và không phải lúc nào cũng có hàng để mua và Lộc Trời chỉ nhận đơn hàng tối thiểu từ 50.000 tấn.

Vấn đề hiện nay là Việt Nam được cấp hạn ngạch 80.000 tấn gạo miễn thuế vào châu Âu, nhưng Lộc Trời chỉ được 60.000 tấn miễn thuế, còn lại 20.000 tấn phải đóng thuế với mức 200 USD/tấn. Hiện Bộ Công Thương đang nỗ lực tìm giải pháp và một số chuyên gia của châu Âu cũng đang hỗ trợ tháo gỡ việc này.

Một vấn đề nữa là cần có sự vào cuộc tích cực của chính quyền địa phương. Bởi trước khi cấp phép xuất khẩu vào châu Âu, các cán bộ giám định của châu Âu sẽ sang lấy mẫu đất để về kiểm định tình trạng tồn dư hóa chất, vật liệu chiến tranh… Do đó, chính quyền địa phương cần chấp thuận quy hoạch diện tích đất dành riêng cho trồng lúa xuất khẩu đi châu Âu để tạo thuận lợi cho việc này.

Nhìn chung, tôi cho rằng điều quan trọng nhất vẫn là DN có muốn thay đổi để đáp ứng các yêu cầu mới này hay không. Nếu thực sự muốn và biết rằng điều này là phù hợp với chiến lược thì DN sẽ nỗ lực tìm giải pháp để vượt qua. Điều này sẽ mở ra cơ hội rất lớn cho DN. Như tại Lộc Trời, sau đơn hàng đầu tiên từ cách đây đúng một năm, lượng hàng đi châu Âu năm nay dự kiến sẽ lớn hơn rất nhiều.

Xin cảm ơn ông!

Hiền Nguyễn (thực hiện)

Theo: Haiquanonline.com.vn

Bình luận của bạn

Tin liên quan

Tin đã đăng