VinaCapital: “Lực cản lớn nhất của tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2023 đã có dấu hiệu suy yếu, lợi nhuận các doanh nghiệp niêm yết sẽ tăng lên hơn 20% vào 2024”

Hàng tồn kho ở Mỹ chạm đáy

Cụ thể, vị kinh tế trưởng VinaCapital cho hay, Việt Nam đã phải hứng chịu lĩnh vực xuất khẩu suy giảm trong khoảng thời gian dài nhất trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, với kim ngạch xuất khẩu ghi nhận giảm 10% so với cùng kỳ trong 7 tháng đầu năm 2023.

“Hiện đã có những dấu hiệu cụ thể cho thấy xuất khẩu của Việt Nam sẽ phục hồi trong Quý 4 nhờ chu kỳ tồn kho của Mỹ chạm đáy và sự dịch chuyển sản xuất của các công ty đa quốc gia từ Trung Quốc sang Việt Nam tăng nhanh”, ông Michael Kokalari nhận định.

Theo đó, báo cáo đề cập, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Tuy nhiên, vào năm 2022, các nhà bán lẻ Hoa Kỳ đã mua quá nhiều sản phẩm Made in Vietnam/Made in Asia với kỳ vọng về một đợt mua sắm bùng nổ hậu COVID, cũng như đối phó với các vấn đề về chuỗi cung ứng.

Song, thực tế, thay vì mua nhiều sản phẩm hơn, người tiêu dùng Mỹ lại chi tiền cho các dịch vụ như du lịch và đi ăn ngoài. Vì lẽ đó, lượng hàng tồn kho của các công ty như Walmart, Target và Nike đã tăng hơn 20% so với cùng kỳ vào cuối năm 2022.

Điều này dẫn đến việc các nhà bán lẻ Hoa Kỳ đã cắt giảm đơn đặt hàng tại các nhà máy ở Việt Nam trong năm nay do lượng hàng tồn kho quá lớn. Đây cũng là nguyên nhân cho việc xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 7 tháng đầu năm 2023 giảm hơn 20% so với cùng kỳ.

Tuy nhiên, theo ông Michael Kokalari, các công ty Hoa Kỳ đã tích cực giảm bớt hàng tồn kho trong suốt năm 2023. Theo đó, số liệu của ISM và S&P Global PMI chỉ ra rằng, chỉ số hàng tồn kho của ISM đạt mức thấp nhất trong 9 năm vào tháng 6 và tăng nhẹ vào tháng 7.

“Điều này cho thấy lượng hàng tồn kho đã chạm đáy”, vị kinh tế trưởng VinaCapital đánh giá.

VinaCapital: “Lực cản lớn nhất của tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2023 đã có dấu hiệu suy yếu, lợi nhuận VN-Index sẽ tăng lên hơn 20% vào 2024” - Ảnh 2.

Lượng hàng tồn kho ở Mỹ. Nguồn: VinaCapital

Tất cả những điều này đều có mối liên hệ chặt chẽ với số liệu xuất khẩu của Việt Nam. Áp lực phải giảm lượng hàng tồn kho của các công ty như Walmart và các công ty khác đã khiến xuất khẩu của Việt Nam sụt giảm trong nửa đầu năm. Thế nhưng, việc giảm tồn kho hiện sắp kết thúc và xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong tháng 7 đã tăng gần 7% so với tháng trước.

“Tất cả các nhà xuất khẩu châu Á sẽ được hưởng lợi ở một mức độ nào đó từ sự phục hồi xuất khẩu, nhưng Việt Nam là quốc gia duy nhất ở châu Á cũng được hưởng lợi đáng kể từ việc các công ty chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam và thành lập các nhà máy sản mới tại quốc gia này”, ông Michael Kokalari đánh giá.

Phục hồi xuất khẩu được thúc đẩy bởi mặt hàng điện tử tiêu dùng, theo sau điện thoại thông minh và hàng may mặc

Chuyên gia của VinaCapital tin rằng, sự cải thiện trong xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng tốc dựa trên một số yếu tố. Thứ nhất, tăng trưởng nhập khẩu của Việt Nam đã bắt kịp tốc độ tăng trưởng xuất khẩu liên tục trong tháng 7, sau khi tụt lại đáng kể trong phần lớn năm 2023. Bên cạnh đó, sự sụt giảm liên tục về đơn đặt hàng xuất khẩu tại nhà máy của Việt Nam đã có dấu hiệu giảm bớt trong tháng 7. Cuối cùng, tồn kho nguyên liệu thô của các công ty đã tăng trong tháng 7, đây là lần tăng đầu tiên kể từ cuối năm 2022.

Cụ thể, hiện nay, các công ty FDI, vốn chiếm phần lớn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ở Việt Nam, dường như đã sẵn sàng tăng cường sản xuất trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh. Dẫn chứng rõ nhất nằm ở việc lượng tồn kho nguyên liệu thô đầu vào của các công ty đã tăng lần đầu tiên kể từ cuối năm 2022, và xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tháng 7 đều tăng 2% so với tháng trước.

“Chúng tôi tin rằng các công ty đang tăng cường nhập khẩu/mua nguyên liệu thô với dự đoán số lượng đơn đặt hàng nhà máy sẽ tăng trở lại vào cuối năm nay”, báo cáo cho hay. 

Theo báo cáo của VinaCapital, hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là các sản phẩm công nghệ cao (như điện tử tiêu dùng, điện thoại thông minh), hàng may mặc và giày dép, phần còn lại là các sản phẩm khác như đồ nội thất và nông sản.

Đầu năm nay, doanh số bán máy tính xách tay toàn cầu đã giảm hơn 30% so với cùng kỳ (xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam giảm hơn 10% so với cùng kỳ trong nửa đầu năm), nhưng sự sụt giảm về doanh số bán máy tính và điện tử tiêu dùng hiện đã chấm dứt. Theo đó, xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam trong tháng 7 đã tăng 28% so với cùng kỳ.

Đối với mặt hàng điện thoại thông minh, báo cáo của VinaCapital đánh giá, Việt Nam là nước xuất khẩu điện thoại thông minh lớn thứ hai thế giới nên việc ra mắt sản phẩm mới có thể tác động lớn đến hoạt động xuất khẩu và sản xuất (riêng Samsung chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước).

Cụ thể, Samsung gần đây đã thông báo rằng mặc dù doanh số bán điện thoại thông minh trong quý 2 giảm 12% so với cùng kỳ (cùng mức với doanh số điện thoại thông minh giảm trên toàn cầu trong năm nay), công ty kỳ vọng sự phục hồi trong nửa cuối năm nhờ sự ra mắt của các mẫu điện thoại mới. Bên cạnh đó, Apple và Google cũng đã lên kế hoạch ra mắt các dự án lớn, với phần lớn linh kiện được sử dụng để tạo ra sản phẩm mới được sản xuất tại Việt Nam bởi Foxxconn, Luxshare, Goertek và các nhà cung cấp khác.

Cuối cùng, theo VinaCapital, hàng may mặc và giày dép chiếm gần 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và xuất khẩu những sản phẩm này sang Mỹ khó có thể phục hồi cho đến năm 2024. Lý do bởi tốc độ giảm hàng tồn kho của mặt hàng này ở thị trường Hoa Kỳ chậm hơn nhiều so với các sản phẩm điện tử tiêu dùng. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng may mặc sang Hàn Quốc và Nhật Bản trong tháng 7 đã tăng khoảng 30% so với tháng trước do nhu cầu về quần áo phục hồi ở cả hai nước.

Từ những nhận định trên, kinh tế trưởng VinaCapital dự đoán, sự phục hồi của lĩnh vực xuất khẩu có thể sẽ giúp nâng mức tăng trưởng GDP của Việt Nam từ dưới 5% vào năm 2023 lên 6,5% vào năm 2024, từ đó, hỗ trợ VN-Index (VNI) trong những tháng tới, thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết từ 6% vào năm 2023 lên hơn 20% vào năm 2024.

 

Hoàng Nguyễn

Nhịp sống thị trường

Nguồn: cafef.vn

“Big 4” ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất, kỳ hạn dưới 3 tháng về 3%/năm

Cụ thể, tại Agribank, lãi suất kỳ hạn 1-2 tháng giảm 0.3 điểm phần trăm còn 3%/năm. Kỳ hạn trên 12 tháng cũng giảm 0.5 điểm phần trăm còn 5.8%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng giảm còn 5.5%/năm.

Tương tự, Vietcombank, VietinBank và BIDV cũng giảm lãi suất kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng mức 0.3 điểm phần trăm về còn 3%/năm; kỳ hạn 3 tháng giảm 0.3 điểm phần trăm còn 3.8%/năm, kỳ hạn 6-9 tháng giảm 0.3 điểm phần trăm còn 4.7%/năm, kỳ hạn 12 tháng giảm 0.5 điểm phần trăm còn 5.8%/năm và trên 12 tháng giảm còn 5.8%/năm.

Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng quốc doanh ngày 23/08//2023

Như vậy, sau đợt điều chỉnh này, mức lãi suất huy động kỳ hạn 1-3 tháng tại các ngân hàng quốc doanh đang thấp hơn nhiều so với trần lãi suất huy động các khoản tiền gửi kỳ hạn dưới 6 tháng được cho phép là 4.75%/năm.

Trước đó, các ngân hàng tư nhân liên tục giảm lãi suất tiền gửi, đưa mức lãi suất huy động về ngang mức đầu năm 2022. Sau động thái giảm tiếp lãi suất, các ngân hàng quốc doanh đang có mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm thấp nhất trong hệ thống.

Tính đến ngày 23/08/2023, lãi suất tiền gửi tiết kiệm 1-3 tháng được các ngân hàng đưa về mức 3-4.75%/năm, kỳ hạn 6-9 tháng trong khoảng 4.7-6.8%/năm, kỳ hạn 12 tháng trong khoảng 5.5-7.0%/năm.

Nguồn: vietstock.vn

EU sẽ phạt tiền nhà nhập khẩu không báo cáo khí thải carbon

Kế hoạch xử phạt được Ủy ban châu Âu (EC) công bố hôm 17-8 như một phần của cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU nhằm ngăn chặn tình trạng “rò rỉ carbon” qua biên giới bằng cách áp chi phí phát thải carbon lên hàng hóa nhập khẩu từ các đối tác thương mại của EU.

Ban đầu, cơ chế này sẽ áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu vào EU ở các lĩnh vực sản xuất phát thải lượng carbon lớn gồm sắt thép, nhôm, xi măng, phân bón và điện nhưng miễn trừ cho một số sản phẩm nhất định như sắt phế liệu hay các loại phân bón không phát thải nhiều carbon trong quá trình sản xuất.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, tức áp dụng thử nghiệm, kéo dài 18 tháng, bắt đầu từ ngày 1-10, các nhà nhập khẩu châu Âu trong các lĩnh vực nói trên phải giám sát và báo cáo lượng carbon phát thải trong quá trình sản xuất các hàng hóa mà họ nhập khẩu.

Bắt đầu từ năm 2026, các nhà nhập khẩu này sẽ phải mua các chứng chỉ phát thải carbon (hay còn gọi là chứng chỉ CBAM) tương ứng với lượng phát thải carbon ở hàng hóa mà họ nhập khẩu từ các nước có mức phí phát thải thấp hơn hoặc miễn phí.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, họ sẽ không phải mua chứng chỉ này nhưng sẽ phải đối mặt với mức từ 10- 50 euro cho mỗi tấn khí thải không báo cáo.

Các nhà nhập khẩu sản phẩm thép và xi măng ở EU sẽ phải đưa ra các báo cáo đầu tiên về lượng khí thải carbon từ từ hàng hóa của họ trước ngày 31-1-2024. Các sản phẩm nhập khẩu khác thuộc diện phải khai báo lượng phát thải carbon trong giai đoạn chuyên tiếp bao gồm điện, hydro, phân bón và nhôm.

Tuy nhiên, phí phạt thấp tính linh hoạt của CBAM vấp phải chỉ trích của các lãnh đạo ngành công nghiệp ở EU.

“Chúng tôi lo ngại mức phạt thấp một cách đáng lo ngại và việc thiếu các yêu cầu thực thi mạnh mẽ. Quy định này có rất nhiều điều khoản giảm nhẹ đối với các nhà nhập khẩu, có nguy cơ tạo cơ hội cho hành vi lách luật”, Adina Georgescu, giám đốc năng lượng của Hiệp hội kim loại màu châu Âu (Eurométeaux), nói.

Các nhà phân tích của S&P Global ước tính, CBAM sẽ tạo ra nguồn thu thuế carbon 80 tỉ đô la cho EU hàng năm vào năm 2040.

CBAM đã gây sốc cho nhiều đối tác thương mại của EU khi cơ chế này lần đầu tiên được công bố. Các nước như Ấn Độ và Brazil cho rằng, CBAM vi phạm các quy tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Các nước khác bao gồm Mỹ và Nam Phi lo ngại thị trường của họ có thể có nguy cơ tràn ngập hàng nhập khẩu giá rẻ từ các công ty không sẵn sàng trả thuế carbon ở EU.

Domien Vangenechten, cố vấn chính sách cấp cao của tổ chức tư vấn khí hậu E3G, cho rằng mức phạt thấp trong quá trình chuyển tiếp là để “khuyến khích các nhà nhập khẩu báo cáo về lượng khí thải của họ” và có thể cao hơn nhiều khi CBAM có hiệu lực đầy đủ.

Giấy phép phát thải carbon của EU đang giao dịch ở mức khoảng 88 euro cho mỗi tấn khí thải. Giá giấy phép này đã tăng hơn gấp ba lần trong ba năm qua khi Brussels công bố các quy tắc cắt giảm carbon và giảm số lượng giấy phép miễn phí được cấp cho các công ty trong ngành công nghiệp ô nhiễm.

Các lãnh đạo trong các ngành công nghiệp mà CBAM nhắm vào cũng cho rằng có quá nhiều sự linh động dành cho 27 nước thành viên EU trong việc quyết định cách thực hiện các quy định của CBAM. Họ yêu cầu mức xử phạt đối với nhà nhập khẩu phải tương đương với mức phạt đối những công ty trong các ngành công nghiệp ở EU bị bắt buộc tham gia Chương trình giao dịch khí thải (ETS) Hiện nay, mức xử phạt đối với những công ty này là 100 euro cho mỗi tấn khí thải carbon không báo cáo.

Ủy ban châu Âu (EC) cho biết, các khoản tiền phạt khi CBAM được thực hiện đầy đủ sẽ ngang bằng với khoản phạt được áp dụng theo ETS.

Vangenechten nhận định, sự phức tạp của các quy định trong CBAM, cũng như cách tính toán và báo cáo lượng khí thải, cho thấy những gì EU đang cố gắng thực hiện là “siêu phức tạp” và có thể ảnh hưởng đến các nhà sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển.

EC lập luận rằng CBAM sẽ khuyến khích các nước khởi động các hệ thống giao dịch khí thải cùa riêng họ. Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia gần đây tuyên bố sẽ xây dựng các thị trường giao dịch carbon.

Theo Financial Times

>>https://vppa.vn/van-hanh-san-giao-dich-tin-chi-carbon-trong-tuong-lai-gan/

Suzano tăng giá bột BEK cho Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ, có hiệu lực từ tháng 9

Công ty cho biết việc điều chỉnh giá có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9, được chứng minh bằng các nguyên tắc cơ bản có tính tích cực, bao gồm nhu cầu mạnh mẽ, giảm hàng tồn kho và đóng cửa nhà máy đột xuất.

Điều này đánh dấu lần tăng giá thứ ba liên tiếp của công ty đối với châu Á nhưng là lần đầu tiên đối với châu Âu và châu Mỹ.

Suzano chưa tiết lộ giá niêm yết cụ thể cho các thị trường này.

Chỉ số FOEX gần đây nhất của Trung Quốc, được công bố vào ngày 15 tháng 8, liệt kê giá gỗ cứng đã tẩy trắng ở mức 533 USD/tấn.

Suzano Paper and Pulp – là nhà sản xuất giấy và bột giấy của Brazil có mặt tại hơn 80 quốc gia. Công ty dẫn đầu trong thị trường giấy bìa ở Mỹ Latinh. Đây là một trong 10 nhà sản xuất bột giấy thị trường lớn nhất và là nhà sản xuất bột giấy bạch đàn (giấy) lớn nhất thế giới.

Nguồn: Fastmarkets RISI – VPPA biên dịch và tổng hợp

>>https://vppa.vn/gia-bot-giay-trung-quoc-giam/

Thứ trưởng Tài chính giải thích lý do chậm hoàn thuế VAT

Tại họp báo Chính phủ chiều 5/8, ông Nguyễn Đức Chi, Thứ trưởng Tài chính cho biết số tiền hoàn thuế năm 2022 là hơn 150.000 tỷ đồng. Bảy tháng đầu năm nay ngành thuế đã hoàn 70.356 tỷ đồng.

Quy định hoàn thuế VAT nêu tại Luật Quản lý thuế, với hai trường hợp là hoàn trước, kiểm tra sau và kiểm trước, hoàn sau. Thời hạn quy định ngày hoàn thuế tính từ khi doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ, với hoàn trước, kiểm tra sau là 6 ngày làm việc, còn kiểm tra trước và hoàn sau là 40 ngày. Ông Chi cho hay, gần 80% hồ sơ hoàn thuế được hoàn trước, kiểm tra sau.

Nói về trách nhiệm chậm hoàn thuế VAT thời gian qua, ông Chi cho rằng muốn biết trách nhiệm thuộc cơ quan quản lý Nhà nước, thuế hay người dân thì “cần xem xét ở từng trường hợp, hồ sơ cụ thể”.

Ông giải thích, với ngành thuế cần rà soát, cải tiến quy trình, xây dựng dữ liệu lớn về doanh nghiệp. Việc này nhằm sàng lọc dữ liệu rủi ro, giảm đi những doanh nghiệp kiểm trước, hoàn sau.

Để rút ngắn thời gian hoàn thuế, ông Chi nói, cơ quan thuế và doanh nghiệp cần nâng cao năng lực, chủ động trong thực hiện quy định về tài chính, thuế và hoàn thuế VAT.

Thêm nữa, ngành thuế cũng cần nâng cao kỷ cương, kỷ luật công vụ trong hoàn thuế, tránh gây khó khăn, nhưng cương quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện vi phạm, để phòng ngừa và ngăn chặn gian lận thuế.

Trước đó, hiệp hội, doanh nghiệp thuộc nhóm các ngành như gỗ, giấy, cao su cho biết, việc bị “giam” cả nghìn tỷ đồng tiền hoàn thuế VAT trong thời gian dài khiến họ bị kiệt quệ. Thậm chí trong tình trạng thiếu vốn, doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Do vậy, từ cuối năm ngoái đến nay, các hiệp hội liên tục kêu cứu vì những bất hợp lý trong thực thi hoàn thuế VAT.

Khảo sát của Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) phối hợp với VnExpress thực hiện trên 9.560 doanh nghiệp cũng cho thấy bức tranh kinh tế có nhiều màu tối khi trên 82% đơn vị dự kiến giảm quy mô, tạm dừng hoặc ngừng kinh doanh. Hơn 81% đánh giá tiêu cực về triển vọng kinh tế trong các tháng còn lại. Trong đó, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp là thiếu đơn hàng (59,2%); tắc nghẽn dòng vốn (51,2%); gặp vấn đề về thủ tục hành chính (45%).

Cuối tháng 7, tại Nghị quyết 105 nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, Chính phủ giao Bộ Tài chính tạo điều kiện, đảm bảo hoàn thuế VAT nhanh nhất.

Theo đó, Bộ này được giao rà soát lại quy định để sửa đổi, tạo điều kiện thuận lợi, nhanh gọn, giúp doanh nghiệp được hoàn thuế VAT nhanh nhất.

Theo: vnexpress.net

>>https://vppa.vn/vcci-chinh-sach-thue-vat-dang-cho-khong-nuoc-khac-tien/

VCCI: Chính sách thuế VAT đang ‘cho không nước khác tiền’

Bộ Tài chính mới đây muốn thu hẹp đối tượng không chịu VAT, đối tượng chịu thuế 5% khi xây dựng dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).

Theo luật hiện hành, những mặt hàng như: nông sản chưa chế biến, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, máy nông nghiệp, tàu cá, thức ăn chăn nuôi, muối, phần mềm máy tính, một số thiết bị, máy móc không phải chịu thuế VAT. Theo đánh giá của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, chính sách này khiến các doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại.

Không chịu VAT, đồng nghĩa, các doanh nghiệp không được kê khai, khấu trừ thuế đầu vào, bao gồm cả tài sản cố định. Họ buộc phải tính vào chi phí sản phẩm, khiến giá thành tăng, lợi nhuận giảm. Doanh nghiệp cũng không mặn mà đầu tư mua sắm, sửa chữa, nâng cao tài sản cố định. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp, đơn cử như trong ngành phân bón, từng bày tỏ mong muốn được tự nguyện đóng VAT.

Góp ý cho Bộ Tài chính, VCCI cho rằng quy định hiện tại ngoài bảo hộ ngược cho nước ngoài còn “cho không” tiền thuế.

Giả sử có 2 nhà máy sản xuất y hệt nhau (giá nhân công, công nghệ, sản phẩm làm ra) nhóm hàng không chịu thuế, một đặt tại Việt Nam, một ở nước ngoài. Điểm giống nhau là sản phẩm đầu ra của hai bên khi bán tại Việt Nam đều không phải đóng VAT. Điểm khác là nhà máy trong nước không được khấu trừ VAT nguyên liệu đầu vào; còn nhà máy nước ngoài được hoàn thuế khi xuất khẩu ra khỏi nước đó.

Điều này khiến hàng hóa nhập khẩu đang có chi phí thuế thấp hơn hàng sản xuất trong nước. Hàng hóa nhập khẩu có chi phí thuế thấp hơn so với hàng sản xuất trong nước chính là chi phí VAT chưa được khấu trừ kể trên.

Thêm vào đó, hiện các thuế nhập khẩu đã được bỏ gần hết sau khi một loạt FTA đi vào hiệu lực.

Nếu so sánh với thuế nhập khẩu, khi đàm phán các FTA, Việt Nam chỉ chấp nhận hạ thuế nhập khẩu một số mặt hàng với các đối tác theo nguyên tắc “có đi có lại” (các nước khác cũng phải đồng ý mở cửa thị trường). Trong khi đó, theo VCCI, quy định về đối tượng không chịu VAT đã khiến Việt Nam thay vì thu được, đã “cho không” các nước đối tác số tiền thuế rất lớn và “mở toang” thị trường nội địa của rất nhiều mặt hàng.

Việc định hướng thu hẹp phạm vi đối tượng không chịu VAT của dự thảo là cần thiết. Dù vậy, dự thảo mới chỉ đề cập vấn đề này đối với phân bón, tàu cá và máy móc nông nghiệp với giải pháp áp thuế 5%. Các mặt hàng còn lại chưa có giải pháp.

Do đó, VCCI đề nghị Bộ Tài chính tiếp tục rà soát để loại bỏ các mặt hàng thuộc nhóm không chịu thuế theo nguyên tắc: duy trì diện không chịu thuế với hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam không nhập khẩu (hoàn toàn tự sản xuất, cung ứng tiêu dùng trong nước); chuyển sang các mức thuế phù hợp với hàng hoá, dịch vụ có nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu dùng.

Về các mức thuế suất, VCCI đưa ra 4 phương án. Phương án 1, chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế 5%.

Phương án 2, thuế suất sẽ là 0% hoặc 5%. Trong đó, hàng có tỷ trọng thuế VAT chưa khấu trừ trên 5% thì về mức 5%, dưới 5% chuyển về mức 0%. VAT 0%, nghĩa là hàng hóa vẫn thuộc nhóm phải đóng thuế, chỉ là đang được hưởng thuế suất ưu đãi (khác với hàng hóa không chịu thuế). Theo đó, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ và hoàn thuế như các mức thuế suất khác.

Phương án 3, chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế. Mức thuế mới luôn thấp hơn chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm.

Ví dụ, một mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 6% trong giá thành sản phẩm thì nên chuyển sang diện thuế suất 5%; mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 4% thì có thể chuyển về mức 3%.

Phương án 4 là cho phép doanh nghiệp trong nước chọn phương pháp tính thuế. Toàn bộ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước (không thuộc diện xuất khẩu) được phân loại vào hai nhóm với thuế suất 5% và 10%. Theo đó, chuyển toàn bộ không chịu thuế sang diện thuế suất 5%; không còn diện hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế.

Nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế 10% vẫn tiếp tục thực hiện các quy định hiện hành.

Nhóm chịu thuế 5% được bổ sung vào diện cho phép lựa chọn phương pháp tính thuế khấu trừ (doanh nghiệp chịu thuế đầu ra 5% VAT được khấu trừ thuế đầu vào) hoặc phương pháp tính thuế trực tiếp (doanh nghiệp được thuế 0% trên doanh thu nhưng không được khấu trừ thuế đấu vào); Hàng hóa nhập khẩu thuộc nhóm này nộp thuế 5% khi nhập khẩu.

Các doanh nghiệp có chi phí thuế chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm nhỏ hơn 5% sẽ có xu hướng lựa chọn phương pháp tính thuế trực tiếp; lớn hơn 5% sẽ có xu hướng chọn phương pháp tính thuế khấu trừ.

Trong các đề xuất đưa ra, VCCI ưu tiên phương án 4.

>>https://vppa.vn/loi-kep-tu-giam-2-thue-vat/

Đức Minh

Theo: vnexpress.net

Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo nghiên cứu về Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay.

1. Khó khăn chính của doanh nghiệp và nguyên nhân

Như Nhóm tác giả đã tổng hợp, doanh nghiệp hiện nay đang gặp phải bốn khó khăn, vướng mắc chính , bao gồm:

– Thứ nhất là vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh: dù đang được quan tâm cải thiện, tháo gỡ dần, khâu thực thi vẫn chậm và yếu, một phần là do quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của công viên chức còn hạn chế và khâu phối hợp chưa tốt. Đây là thách thức, bất cập lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm niềm tin.

– Thứ hai là vấn đề tài chính , thể hiện qua ba khía cạnh: (i) Một là nghĩa vụ thuế và phí đáo hạn: điều này đã và đang được Quốc hội, Chính phủ nhận diện và hỗ trợ thông qua việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ như nêu dưới đây.

(ii) Hai là nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau: điều này, cùng với hạn chế về tiếp cận và hấp thụ vốn, vòng quay tiền chậm, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về dòng tiền, nên tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) trong cung tiền tăng chậm lại kể từ quý 2/2022 và thậm chí giảm kể từ tháng 2/2023, nhưng đang giảm ít hơn gần đây (Hình 1). Từ đó dẫn tới tốc độ tăng cung tiền (so với cùng kỳ) đã liên tục giảm từ tháng 1/2022 đến tháng 3/2023, trước khi đang tăng nhẹ trở lại từ tháng 4/2023.

(iii) Ba là tiếp cận vốn: đối với kênh tín dụng, theo NHNN, đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng tăng 4,73% so với đầu năm, tương đương với cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn nhiều cùng kỳ của các năm còn lại trong giai đoạn 2018-2022. Trong đó, dư nợ đối với doanh nghiệp tăng 4,66% so với cuối năm 2022, chiếm 51% dư nợ nền kinh tế. Theo đó, tăng trưởng tín dụng thấp ở hầu hết các lĩnh vực (trừ xây dựng, Hình dưới đây ).

Bốn nguyên nhân chính khiến tín dụng ngân hàng tăng thấp : (i) Bối cảnh chung rủi ro, thách thức hơn, nợ xấu gia tăng khiến các tổ chức tài chính trên thế giới và cả Việt Nam trở nên thận trọng hơn; (ii) khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của bên vay ở mức thấp hơn [do năng lực tài chính suy giảm, giá trị tài sản bảo đảm (nhất là BĐS) bị giảm; (iii) năng lực hấp thụ vốn, nhu cầu vay vốn của cả doanh nghiệp và hộ gia đình ở mức thấp (do thiếu đơn hàng, hoạt động SXKD bị thu hẹp, e ngại tình trạng trì trệ ở một bộ phận công viên chức)]; (iv) một số lĩnh vực lâu nay dựa nhiều vào vốn ngân hàng hay TPDN đang suy giảm như BĐS, công nghiệp, dịch vụ khác và tiêu dùng, dẫn đến nhu cầu tín dụng của những lĩnh vực này cũng giảm theo ( xem Hình trên ).

Bên cạnh đó, kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn bị thu hẹp (hết 7 tháng đầu năm, huy động từ thị trường cổ phiếu chỉ đạt khoảng 12.000 tỷ đồng, giảm gần 60%; từ thị trường TPDN ước đạt 61 nghìn tỷ đồng, giảm 78% so với cùng kỳ năm 2022).

– Thứ ba là khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra: chi phí đầu vào, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, một số lĩnh vực chỉ mới có tín hiệu phục hồi đơn hàng từ đầu quý 3/2023.

– Thứ tư là vấn đề lao động . Thị trường lao động thay đổi nhiều sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung – cầu (chỗ thiếu, chỗ thừa), việc làm, thu nhập bị giảm, chưa kể thái độ làm việc đôi khi còn cầm chừng…v.v.

Nguyên nhân gây nên khó khăn đối với doanh nghiệp gồm cả chủ quan và khách quan. Về nguyên nhân khách quan, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, lạm phát, lãi suất dần hạ nhiệt nhưng đang ở mức cao… khiến nhu cầu thương mại, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu giảm; trong khi đó, ở trong nước, với một nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu còn thấp cùng với những khó khăn, bất cập nội tại,… đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam (chưa kể nhiều doanh nghiệp đã yếu đi nhiều sau 3 năm chống chịu với dịch Covid-19).

Nguyên nhân chủ quan đến từ môi trường kinh doanh nội tại và bản thân doanh nghiệp. Nền tảng vĩ mô của chúng ta đang khá tốt, nhưng sức chịu đựng với các cú sốc bên ngoài còn yếu, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào khối FDI (chiếm hơn 72% kim ngạch xuất khẩu, 58% kim ngạch nhập khẩu năm 2022), công nghiệp phụ trợ yếu khiến DN phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu; lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng còn ở mức cao; thủ tục hành chính (gồm cả định giá đất và tiền thuê đất, phòng cháy chữa cháy…v.v.). Trong khi đó, bản thân doanh nghiệp bộc lộ nhiều hạn chế như: (i) năng lực quản trị còn yếu, năng lực dự báo tình hình hạn chế; (ii) năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở mức thấp nên dễ bị thay thế hoặc cắt bỏ trong bối cảnh khó khăn; (iii) nhiều DN phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu (một phần là do công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển) trong khi chưa đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; (iv) nhiều DN sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, đầu tư dàn trải; (iv) thiếu chính sách liên kết giữa các DN trong nước và DN FDI, dẫn đến còn tình trạng vừa thừa – vừa thiếu; (v) chưa tranh thủ, quyết liệt đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và xanh hóa trong thời gian qua.

2. Chính sách của Quốc Hội và Chính phủ, Bộ, ngành và NHNN

Trong bối cảnh đó, Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, khó khăn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Quốc Hội và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, với chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ linh hoạt, nới lỏng có kiểm soát, cùng với việc thúc đẩy đầu tư công. Gần đây nhất là Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 15/7/2023 về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, siết chặt kỷ luật, kỷ cương…v.v.

– Đối với chính sách tài khóa, các chính sách miễn, giảm, giãn tiền thuế, phí và tiền thuê đất năm 2023 với tổng quy mô gần 200 nghìn tỷ đồng, tương ứng với số giảm thu ngân sách thực tế là hơn 82 nghìn tỷ đồng ; chính sách thúc đẩy đầu tư công với tổng quy mô (cả chuyển tiếp từ năm trước) lên đến gần 800 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2022, tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng.

– Đối với chính sách tiền tệ: chuyển từ trạng thái “chắc chắn” sang “linh hoạt, nới lỏng” có kiểm soát nhằm hỗ trợ tăng trưởng, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất điều hành nhằm định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đến nay, mặt bằng lãi suất bình quân giảm khoảng 1-2% so với đầu năm. Trong thời gian tới, dự báo mặt bằng lãi suất huy động và cho vay sẽ tiếp tục giảm khi việc giảm lãi suất điều hành đã thẩm thấu hơn và theo chỉ đạo chung của Chính phủ (phấn đấu giảm 1,5-2%), cùng với nỗ lực giảm chi phí và cân đối vốn của các TCTD.

Về chính sách tín dụng, NHNN đã điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD năm 2023 với mức giao toàn hệ thống khoảng 14%. Vì vậy, tình trạng “cạn room” như năm 2022 không còn tiếp diễn. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng sẽ phụ thuộc lớn vào khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng và nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn của người dân và doanh nghiệp. Dự báo, cả năm 2023, tăng trưởng tín dụng khoảng 12-13%. Cùng với đó, chính sách cho phép cơ cấu lại nợ (không chuyển nhóm nợ) cùng với gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng để cho vay nhà ở xã hội và gói tín dụng 15 nghìn tỷ đồng cho vay lâm, thủy sản với lãi suất thấp hơn bình quân thị trường từ 1-2% cũng đã chính thức được triển khai.

3. Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của DN và người dân

Để tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, Chính phủ, Bộ, ngành, NHNN và doanh nghiệp cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp tác động cả tổng cung và tổng cầu như sau:

Thứ nhất Chính phủ chỉ đạo tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Quốc Hội, Chính phủ như đã nêu trên ; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế, chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, DN và người dân.

Theo đó, cần lưu ý rút ngắn độ trễ chính sách, để chính sách tác động nhanh hơn, hiệu quả hơn. Theo đó, với chính sách tiền tệ, ngoài việc cho phép cơ cấu lại nợ, mua lại trái phiếu, các gói tín dụng; cần tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cả huy động và cho vay; đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD yếu kém nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất không lành mạnh, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay. Các TCTD xem xét linh hoạt hơn (không hạ chuẩn) điều kiện tín dụng như là một giải pháp tăng khả năng tiếp cận.

Với chính sách tài khóa , cần đẩy nhanh hơn tiến độ thực thi hoàn thuế VAT, các chính sách giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất, giảm 2% thuế GTGT; sớm xem xét giảm tỷ lệ đóng BHXH cho doanh nghiệp; xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi (nhất là cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ 2% lãi suất…) sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội (mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV và các quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại các địa phương…v.v.

Đặc biệt, mọi quyết sách đều cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện. Những quyết sách này mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ phải là giải quyết được tâm lý sợ sai, đùn đẩy, sợ trách nhiệm. Theo đó, cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, vì cái chung cần sớm được cụ thể hóa và nhất quán, đồng bộ thực hiện. Về lâu dài, chính sách tinh giản bộ máy, nâng cao trách nhiệm và chất lượng thực thi công vụ gắn với cải cách tiền lương là cấp thiết.

Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng: (i) quyết tâm đẩy mạnh giải ngân Chương trình phục hồi 2022-2023 và đầu tư công, bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn đầu tư công như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, tiêu dùng thực tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và Tp. HCM (hai TP này đóng góp 39% tăng trưởng GDP năm 2019)…v.v.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác) nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, BĐS…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng.

Thứ tư, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp; từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã và đang được chỉ ra; quan tâm hỗ trợ DN chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: (i) khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, thủ tục hành chính, nhất là bộ máy thực thi công vụ (gồm cả các thủ tục hoàn thuế, phòng cháy chữa cháy, định giá đất và tiền thuê đất…); (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; (iv) rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, trong bối cảnh chuẩn bị áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu; (v) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với DN hiện nay như nêu trên; những vụ việc vi phạm về chứng khoán, bất động sản…cũng cần sớm được giải quyết dứt điểm, qua đó củng cố niềm tin của người dân và DN.

Thứ năm, gia tăng nguồn lực cho các TCTD để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Theo đó, Quốc Hội, Chính phủ tiếp tục cho phép các NHTM có sở hữu Nhà nước giữ lại lợi nhuận Nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các TCTD dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các TCTD yếu kém, có điều kiện tăng tín dụng, triển khai các gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.

Thứ sáu, phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN (ngoài việc xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm thời gian qua; nên khẩn trương có giải pháp thúc đẩy phát hành TPDN ra công chúng, chuẩn bị các điều kiện thực hiện Nghị định 65/2022/NĐ-CP khi Nghị định 08/2023/NĐ-CP hết hiệu lực…); có đề án, chương trình và giải pháp cụ thể về việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam (từ “cận biên” lên “mới nổi”).

Thứ bảy, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là đảm bảo tiến độ và chất lượng sửa đổi luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh BĐS, luật các TCTD….); cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế, chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, để vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức .

Cuối cùng, doanh nghiệp và các tổ chức tài chính cũng cần ưu tiên thực hiện 4 nhóm giải pháp :

– Một là, DN cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch thông tin (theo đúng kế hoạch, hồ sơ phát hành trái phiếu hoặc vay vốn); giải quyết đúng các cam kết trả nợ (chấp nhận bán tài sản, nếu cần), chủ động có phương án, giải pháp cụ thể đối với TPDN đáo hạn còn lại trong năm 2023 và 2024; xây dựng lộ trình niêm yết, áp dụng xếp hạng tín nhiệm TPDN phù hợp…v.v.

– Hai là, đa dạng hóa nguồn vốn (tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến cả phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng…); tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá, lừa đảo trong xuất nhập khẩu (có thể hợp tác với các tổ chức tài chính, thương vụ, hiệp hội)…v.v.

– Ba là, DN cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong phát triển, quản lý, vận hành hoạt động DN; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững. Đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay và trong thời gian tới.

– Bốn là, đối với các tổ chức tài chính, chủ động thực hiện Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, Thông tư 06 (sửa đổi Thông tư 39) về hoạt động cho vay của các TCTD; rà soát, linh hoạt hơn, phù hợp hơn trong việc áp dụng (không phải là hạ chuẩn) các điều kiện tín dụng (gồm cả tài sản bảo đảm); quyết liệt đơn giản hóa quy trình, thủ tục; đẩy mạnh ứng dụng CNTT và chuyển đổi số (vừa là tiết giảm chi phí, vừa giảm thủ tục giấy tờ và phù hợp với xu thế)….v.v.

H. Kim (Ghi theo báo cáo của Nhóm tác giả)

Nhịp sống thị trường

>>

Đề nghị làm rõ trách nhiệm các Bộ khi ban hành quy chuẩn PCCC chưa phù hợp

Ngày 9-8, Đoàn giám sát của Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã làm việc với ba Bộ KH&CN, GTVT, NN&PTNT về việc thực hiện Nghị quyết số 99/2019/QH14 của Quốc hội về tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phòng cháy và chữa cháy giai đoạn 2020 – 2022.

Có quy chuẩn PCCC tuổi thọ chỉ kéo dài… 1 năm

Phát biểu tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới, Trưởng Đoàn giám sát, đánh giá về cơ bản, báo cáo của các bộ đã phản ánh đầy đủ công tác PCCC trong nội bộ cơ quan và các chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực liên quan PCCC. Đồng thời, đề cập vướng mắc của các quy định pháp luật liên quan tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng như việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ liên quan PCCC.

Báo cáo của Bộ KH&CN cho hay hiện cả nước có khoảng 240 tiêu chuẩn quốc gia liên quan lĩnh vực PCCC, trong đó các Bộ chuyên ngành ban hành 41 Quy chuẩn Việt Nam trong lĩnh vực PCCC và CNCH.

Tuy nhiên, một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Báo cáo dẫn chứng Quy chuẩn QCVN 06:2022 về an toàn phòng cháy cho nhà và công trình do Bộ Xây dựng ban hành còn gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Nêu ý kiến, Thiếu tướng Vũ Xuân Hùng, Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh, đề nghị Bộ KH&CN báo cáo rõ việc thực hiện Quyết định số 630 của Thủ tướng về tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật về PCCC, trong đó có việc rà soát các quy chuẩn.

Thiếu tướng Vũ Xuân Hùng, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh

Thiếu tướng Vũ Xuân Hùng, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh

Theo Thiếu tướng Vũ Xuân Hùng, Quy chuẩn 06 chỉ có tuổi thọ một năm nên gây khó khăn cho các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp phải ngừng việc hoặc giải thể.

“Vậy trách nhiệm của Bộ KH&CN trong việc phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Công an như thế nào để hướng dẫn trong việc áp dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực PCCC?” – Thiếu tướng Vũ Xuân Hùng nêu vấn đề.

Một số ý kiến khác tại phiên họp cũng đề nghị Bộ KH&CN làm rõ trách nhiệm trong tổ chức thẩm định Quy chuẩn 06, trách nhiệm của các Bộ trong việc xây dựng, ban hành các Quy chuẩn, Tiêu chuẩn.

Hiệu quả công tác PCCC rừng ở mức thấp

Trong khi đó, Thiếu tướng Nguyễn Thị Xuân, Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh, đánh giá báo cáo của Bộ NN&PTNT đã cung cấp thông tin số liệu khá đầy đủ, thể hiện công tác quản lý Nhà nước, triển khai PCCC theo chức năng nhiệm vụ của Bộ.

                         Thiếu tướng Nguyễn Thị Xuân, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh

Tuy nhiên, Thiếu tướng Nguyễn Thị Xuân cho rằng hiệu quả công tác PCCC rừng vẫn ở mức thấp. Cạnh đó, việc đầu tư phương tiện, trang thiết bị cho công tác này cũng còn nhiều hạn chế.

Theo vị ĐBQH tỉnh Đắk Lắk, biến đổi khí hậu, nhất là trong các đợt hạn hán, sẽ tiếp tục là các yếu tố dẫn đến nguy cơ cháy, đặc biệt là cháy rừng rất cao và khi xảy ra cháy, thiệt hại sẽ rất lớn.

Từ đó, Thiếu tướng Nguyễn Thị Xuân đề xuất cần tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ phù hợp đối với công tác PCCC rừng cho lực lượng kiểm lâm, chủ rừng, lực lượng PCCC tại chỗ.

Ngoài ra, bà Xuân cũng đề nghị Bộ NN&PTNT làm rõ công tác phối hợp, xã hội hóa trong công tác PCCC rừng trong thời gian qua.

                            Trung tướng Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh

Nhấn mạnh mục tiêu bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân, Trung tướng Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh, Phó Trưởng Đoàn Thường trực Đoàn giám sát, cũng đề nghị Bộ NN&PTNT làm rõ công tác phối hợp với lực lượng quân đội trong công tác PCCC và bảo vệ rừng…

Tại phiên họp, các đại biểu cũng đề nghị ba Bộ bổ sung thêm số liệu cụ thể các vụ việc cũng như thiệt hại do các vụ cháy gây ra để thấy rõ bức tranh thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp quyết liệt và khả thi nhất.

Cạnh đó, các Bộ cũng cần làm rõ trách nhiệm trong công tác phối hợp với các bên liên quan nhằm giảm thiểu nguy cơ cháy nổ gắn với chức năng quản lý của từng Bộ phụ trách liên quan PCCC…

>>https://vppa.vn/giay-to-phong-chay-chua-chay-se-duoc-giam-bot/

Theo Pháp luật

Năm 2024 sẽ điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng

Sáng nay 9-8, tại TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Hội đồng Tiền lương Quốc gia họp phiên thứ nhất năm 2023 để thảo luận, thương lượng về phương án điều chỉnh lương tối thiểu vùng năm 2024.

Cuộc họp được chủ trì bởi ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, Chủ tịch Hội đồng Tiền lương Quốc gia và có sự tham gia của đại diện các bên như Tổng LĐLĐ Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và một số thành viên độc lập…

Ông Lê Đình Quảng, Phó trưởng Ban Chính sách, pháp luật Tổng LĐLĐ Việt Nam

Phiên họp lần thứ nhất đã kết thúc trong sáng nay. Phóng viên Báo Người Lao Động đã phỏng vấn ông Lê Đình Quảng, Phó trưởng Ban Chính sách, pháp luật Tổng LĐLĐ Việt Nam, thành viên Hội đồng Tiền lương Quốc gia, về những nội dung, quan điểm mà các bên nêu ra tại phiên họp.

Phóng viên: Thưa ông, quan điểm chung và khác biệt của các bên tại phiên họp thứ nhất năm 2023 của Hội đồng Tiền lương Quốc gia để thảo luận, thương lượng về phương án điều chỉnh lương tối thiểu vùng năm 2024, như thế nào?

Ông Lê Đình Quảng, Phó trưởng Ban Chính sách, pháp luật Tổng LĐLĐ Việt Nam: Quan điểm chung đều đánh giá tình hình hiện nay, cả DN và NLĐ đều đang gặp khó khăn. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay nhiều thông tin đang cần có xem xét.

Hiện cả hệ thống chính trị đang tìm mọi cách vào cuộc để tháo gỡ, hỗ trợ cho DN và NLĐ. Chính vì vậy các thành viên đều đồng ý sẽ đề xuất điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu vùng trong năm 2024.

Tuy nhiên mức tăng như thế nào, thời điểm tăng (từ 1-4 hay từ 1-7) thì phải chờ các thông tin, dữ liệu đầu vào dịp cuối năm nay để cùng xem xét, đánh giá tại phiên họp lần thứ hai của Hội đồng Tiền lương Quốc gia dự kiến diễn ra vào cuối tháng 11-2023.

Lí do vì sao phía Tổng LĐLĐ Việt Nam xin chủ toạ cho hội ý riêng giữa chừng tại phiên họp?

Khi tôi trình bày đề xuất mức tăng lương năm 2024 là từ 5-6%, cơ bản nhiều thành viên cũng đồng thuận, thậm chí có ý kiến đề xuất tăng cao hơn.

Tuy nhiên sau khi nghe ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước, giới sử dụng lao động, các chuyên gia độc lập, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã hội ý và thống nhất sẽ chưa quyết đề xuất mức tăng lương, thời điểm tăng lương năm 2024 tại phiên họp này mà lùi đến phiên họp thứ hai.

Còn quan điểm của cơ quan quản lý là Bộ LĐ-TB-XH và phía đại diện chủ sử dụng lao động tại phiên họp?

Trên tinh thần chia sẻ khó khăn của DN và NLĐ, phía Bộ LĐ-TB-XH cũng thống nhất sẽ điều chỉnh tiền lương tối thiểu trong năm 2024, tuy nhiên thời điểm tăng, mức tăng sẽ được xem xét kĩ hơn tại phiên họp diễn ra vào tháng 11 tới đây.

Đối với phía đại diện chủ sử dụng lao động là VCCI, quan điểm của họ thế nào, thưa ông?

Phía Đại diện chủ sử dụng lao động cũng đã nhìn thấy được sự thiện chí của phía đại diện người lao động nêu ra tại phiên họp cũng như thời gian qua, tổ chức Công đoàn và người lao động luôn đồng hành, chia sẻ với DN.

Phía đại diện chủ sử dụng lao động cũng thống nhất phải tăng lương trong năm 2024. Tuy nhiên hiện nay DN đang đối mặt với nhiều khó khăn, vì vậy họ mong muốn xem xét lùi thời điểm xem xét điều chỉnh tiền lương để DN có điều kiện duy trì sản xuất, đảm bảo việc làm cho NLĐ.

Với đề xuất của VCCI như vậy, phía Tổng LĐLĐ Việt Nam đã xem xét thấu đáo với tinh thần chia sẻ, nên đã đồng ý lùi lại để phiên họp sau mới xem xét đề xuất mức tăng, thời điểm tăng lương của năm 2024.

Đối với các chuyên gia độc lập của Hội đồng, quan điểm của họ thế nào tại phiên họp?

Họ đồng thuận chia sẻ những khó khăn của cả DN và NLĐ đang gặp phải. Họ cũng đồng ý tăng lương, chỉ có điều cần cân nhắc là thời điểm nào tăng và tăng bao nhiêu mà thôi.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Văn Duẩn

Theo Người lao động

Đề xuất tăng lương tối thiểu vùng năm 2024 khoảng 5-6%

Sáng nay 9-8, tại TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Hội đồng Tiền lương Quốc gia họp phiên thứ nhất năm 2023 để thảo luận, thương lượng về phương án điều chỉnh lương tối thiểu vùng năm 2024.
Cuộc họp được chủ trì bởi ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, Chủ tịch Hội đồng Tiền lương Quốc gia.

Là thành viên Hội đồng Tiền lương Quốc gia đầu tiên phát biểu, trình bày quan điểm tại phiên họp, ông Lê Đình Quảng, Phó trưởng Ban Chính sách, pháp luật Tổng LĐLĐ Việt Nam, đã dẫn số liệu kết quả khảo sát tình hình đời sống, việc làm, tiền lương của người lao động năm 2023 cho Ban Chính sách – Pháp luật và Viện Công nhân và Công đoàn phối hợp thực hiện để cho thấy bức tranh đời sống của công nhân lao động.

“Chúng tôi chia sẻ những khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đối mặt, vì vậy mong muốn điều chỉnh tiền lương tối thiểu năm 2024 để bù đắp chỉ số trượt giá để duy trì tiền lương thực tế cho người lao động, với mức đề xuất tăng 5-6%”- ông Lê Đình Quảng cho hay.

Theo ông Quảng, trong bối cảnh hiện nay, đời sống người lao động gặp rất nhiều khó khăn, nhất là hơn một năm qua, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao so với trước đây.

Tuy nhiên trong các yếu tố để xem xét điều chỉnh mức lương tối thiểu thì khả năng chi trả của doanh nghiệp cũng rất quan trọng.

Rõ ràng trong điều kiện hiện nay, điều này cần được xem xét để vừa đảm bảo động viên người lao động làm việc có năng suất, chất lượng, làm sao để tiền lương thực sự là động lực cải thiện điều kiện làm việc, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, nhưng cũng hài hòa với khả năng chi trả. Đó là bài toán phải tính rất kỹ.

Kết quả khảo sát với gần 3.000 lao động ở 4 vùng với các loại hình doanh nghiệp do Tổng Liên đoàn thực hiện, cho thấy có 17,3% công nhân lao động được khảo sát phải thường xuyên vay nợ dẫn đến 3,1% trong số đó thường xuyên bị đe dọa, khủng bố và 45,2% người vay nợ có tâm trạng lo lắng bất an.

Có 52,3% NLĐ có làm thêm giờ, số ngày làm thêm giờ trung bình 1 tháng là 10,71 ngày; số giờ làm thêm trung bình 1 ngày là 1,75 giờ. Bên cạnh đó, có 76,2% NLĐ tham gia khảo sát “tình nguyện” làm thêm giờ để kiếm thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống.

Về thu nhập, thu nhập trung bình của 2.982 NLĐ khảo sát đạt hơn 7,8 triệu đồng/tháng, trong đó tiền lương cơ bản chỉ chiếm 76,7% thu nhập hàng tháng của họ, 23,3% khác đến từ tiền làm thêm giờ và các khoản trợ cấp, phụ cấp của DN;

Có 24,5% NLĐ cho biết tiền lương và thu nhập chỉ vừa đủ đáp ứng 100% chi tiêu cho cuộc sống; còn lại 75,5% người trả lời cho biết thu nhập hiện tại không đáp ứng đủ thu nhu cầu chi tiêu của họ, thậm chí, có trường hợp thu nhập chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu chi tiêu.

Chỉ có 8,1% NLĐ có dư tích lũy từ tiền lương và thu nhập; 11,2% không thể đủ sống và ngoài thời gian làm việc tại DN họ phải làm thêm việc khác để kiếm thêm thu nhập.

Tiền lương là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quyết định lập gia đình của 53,7% NLĐ và quyết định con của 72,0% NLĐ.

Có tới 17,6% NLĐ không sống cùng con dưới 18 tuổi vì lý do tiền lương thấp và 2,2% NLĐ chưa từng mua sữa công thức (sữa bột) cho con dưới 6 tuổi và chỉ có 37,7% NLĐ có tiền lương đủ để đảm bảo 100% nhu cầu học tập của con.

Chỉ có 26,2% NLĐ có điều kiện để ăn thịt, cá trong các bữa ăn hàng ngày; 10,3% NLĐ tham gia khảo sát cho biết với thu nhập hiện nay họ ít khi (1 lần/tuần) có điều kiện để ăn thịt, cá trong bữa ăn tại gia đình.

Văn Duẩn

Theo Người lao động