Hoạt động sản xuất tại Trung Quốc tiếp tục suy yếu, tỷ lệ thất nghiệp lên cao kỷ lục

Hãng nghiên cứu thị trường S&P Global và Caixin cho biết chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) lĩnh vực sản xuất chế tạo của Trung Quốc trong tháng 6/2023 chỉ đạt 50,5 điểm, so với mức 50,9 điểm của tháng 5/2023. Ngưỡng 50 điểm là sự phân định giữa suy giảm và tăng trưởng. Chỉ số PMI Caixin/S&P Global khảo sát hoạt động sản xuất của 650 doanh nghiệp tư nhân và nhà nước, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu, và tập trung tại các khu vực ven biển của Trung Quốc.

Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cũng vừa công bố chỉ số PMI ngành sản xuất chính thức của nước này trong tháng 6/2023 là 49 điểm, so với mức 48,8 điểm của tháng 5/2023. Chỉ số này PMI của NBS khảo sát hoạt động sản xuất của khoảng 3.200 doanh nghiệp trên toàn Trung Quốc. Đây là tháng thứ 3 liên tiếp, chỉ số PMI của NBS ở dưới ngưỡng 50 điểm.

Các chỉ số này đều cho thấy hoạt động sản xuất tại Trung Quốc vẫn đang ở mức yếu và có dấu hiệu suy giảm.

Chỉ số PMI Trung Quốc suy giảm
Dữ liệu của NBS cho thấy cả lĩnh vực sản xuất chế tạo lẫn lĩnh vực phi sản xuất của Trung Quốc liên tục suy yếu trong những tháng gần đây.

Chuyên gia phân tích kinh tế cao cấp Wang Zhe thuộc hãng nghiên cứu Caixin Insight Group cho biết “Các dữ liệu cho thấy quá trình phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc hiện vẫn chưa vững vàng, và đang đối mặt với nhiều vấn đề lớn như thiếu động lực tăng trưởng nội địa, nhu cầu yếu và triển vọng kinh tế đang dần xấu đi. Chính phủ Trung Quốc cần kích thích chính sách vĩ mô mạnh mẽ hơn và triển khai hiệu quả hơn từ góc độ vi mô”.  

Chang Shu và Eric Zhu, các nhà kinh tế học của Bloomberg, nhận định triển vọng kinh tế nửa cuối năm nay của Trung Quốc sẽ đối mặt với rất nhiều thách thức khi nhu cầu đối với hàng hoá nước này từ các thị trường xuất khẩu ở mức yếu. Hoạt động sản xuất tại Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản trong tháng 6 vừa qua cũng suy giảm do nhu cầu yếu.

Các dữ liệu liên quan đến Chỉ số PMI Caixin/S&P Global cũng cho thấy niềm tin kinh doanh tại Trung Quốc trong tháng 6 vừa qua đã rơi xuống mức thấp nhất trong vòng 8 tháng trở lại đây.

Đáng chú ý, các doanh nghiệp sản xuất tham gia khảo sát cho biết đã giảm số lượng nhân viên tháng thứ 4 liên tiếp nhằm giảm công suất khi doanh thu tiêu thụ giảm mạnh. Điều này sẽ gây áp lực lớn hơn lên thị trường lao đông Trung Quốc khi tỷ lệ thất nghiệp đối với nhóm thanh niên tại nước này đang ở mức cao nhất lịch sử, lên tới 20,8%.

Rủi ro giảm phát đối với Trung Quốc cũng đang ngày càng tăng lên. Tốc độ giảm giá cả hàng hoá đầu vào của các doanh nghiệp trong tháng 6/2023 ở mức mạnh nhất kể từ tháng 1/2016 do nhu cầu yếu khi nguồn cung tăng lên. Trong khi đó, nhu cầu yếu buộc các doanh nghiệp tiếp tục hạ giá bán sản phẩm đầu ra khiến cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.

Ngoài ra, lĩnh vực bán lẻ của Trung Quốc đang cho thấy dấu hiệu chững lại trong tháng 4 và tháng 5/2023.

Vừa qua, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) đã phải giảm một loạt lãi suất điều hành, bao gồm cả các loại lãi suất liên quan trực tiếp đến việc thế chấp, nhằm thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng tại Trung Quốc. Các nhà kinh tế học và chuyên gia kinh tế hiện kỳ vọng Trung Quốc sẽ tung ra các gói kích thích kinh tế cũng như các chính sách tiền tệ có tác động mạnh hơn.

Quỳnh Trang

Nguồn: tapchicongthuong.vn

Hàng ngàn doanh nghiệp phải giải trình, sao ‘tiên tri’ nổi người bán có bỏ trốn không?

Số lượng doanh nghiệp (DN) phải giải trình lên đến hàng ngàn do số DN bị liệt vào danh sách rủi ro lên đến… 524 DN!

Người bán sai, người mua phải ‘tiên tri’? 

Những ngày này trên các diễn đàn kế toán, chủ đề giải trình hóa đơn DN bỏ trốn được bàn luận sôi nổi. “Giờ mua bán có hợp đồng, bàn giao, thanh lý còn chưa đủ. Cần có tài tiên tri xem DN bán hàng cho mình tương lai có bỏ trốn hay không”, một kế toán tên Y. bày tỏ bức xúc trên một diễn đàn về thuế.

Trường hợp trên không phải là cá biệt. Chị T., kế toán một DN, cho biết DN này cũng bị một hóa đơn, dù có vài trăm nghìn nhưng thuế gọi lên giải trình lý do “mua hàng của công ty không có thực”. Trên thực tế, theo chị T., DN này mua hàng qua mạng, bên bán cách công ty đến 250km.

Do vậy chỉ có thể trao đổi qua điện thoại, mua hàng xong nhận hóa đơn điện tử qua mail. Trước khi mua, DN cũng đã tra trang “masothue.com” trên cổng thông tin, công ty bên bán vẫn hoạt động bình thường, hóa đơn điện tử được Tổng cục Thuế cấp mã hợp lệ và có tồn tại hóa đơn đó.

Theo chị T., nếu chỉ dừng lại ở giải trình sẽ không sao nhưng nếu phạt thì thật sự rất vô lý vì DN mua thật, có hóa đơn chứng từ đúng theo quy định của pháp luật và được Tổng cục Thuế cấp mã xác nhận nhưng giờ lại nói hóa đơn “ma”.

“Thời đại 4.0, mua bán qua mạng và qua điện thoại là nhiều, vậy mà nhiều công ty đã bị loại chi phí, bị phạt trong khi việc này nằm ngoài tầm kiểm soát của DN vì một DN có thể dừng hoạt động bất cứ lúc nào. DN bán hàng sai mà người mua hàng phải chịu là quá vô lý”, chị T. bức xúc.

Không chỉ trên các group về thuế, kế toán mà trên các kênh khác cũng xôn xao về việc “bỗng dưng bị mời giải trình” này. Có DN đăng đàn xin mẫu giải trình với cơ quan thuế và gọi đây là “kiếp nạn thứ 82”.

Nhiều DN cho rằng ngành thuế cần rạch ròi trong việc xác định cũng như xử lý trách nhiệm với các hóa đơn của DN bỏ trốn. Đại diện một DN tại TP.HCM cho biết đã bị “dính” hai hóa đơn của DN bỏ trốn, trong đó một hóa đơn mua hàng giá trị 1,5 triệu đồng làm quà tặng và một hóa đơn tiếp khách 5 triệu đồng.

“Chúng tôi phải chứng minh việc mua bán là có thật. Nhưng quà đã tặng rồi, còn hóa đơn ăn uống, tiếp khách thì chứng minh làm sao? Chúng tôi đang tính toán đến tình huống phải bóc tách chi phí này ra, kê khai thuế lại và bị tính tiền chậm nộp. Nhưng như vậy vô lý quá”, vị này nói.

Không lo nếu mua hàng trước khi bên bán bỏ trốn?

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Mai Xuân Thành – quyền tổng cục trưởng Tổng cục Thuế – cho biết ngành thuế đã lọc ra danh sách hơn 500 DN để đưa vào giám sát chặt chẽ việc sử dụng hóa đơn. Trên thực tế, số lượng DN lọt vào tầm ngắm rủi ro trong sử dụng hóa đơn còn rất nhiều.

“Qua theo dõi, giám sát trên hệ thống, cơ quan thuế sẽ truy vết được các DN lập ra để mua bán hóa đơn… nhằm mục đích trốn thuế” – ông Thành nói. Theo Tổng cục Thuế, đã có hơn 4 tỉ hóa đơn điện tử được phát hành. Và thời gian qua đã xuất hiện một số tổ chức, cá nhân gian lận trong việc phát hành, sử dụng hóa đơn điện tử nhằm chiếm đoạt tiền thuế.

Tuy nhiên, luật sư Trần Xoa, giám đốc Công ty luật Minh Đăng Quang, cho rằng để DN tâm phục khẩu phục, ngành thuế cần rạch ròi. Cần phân biệt hóa đơn đó DN đã mua trước hay sau thời điểm DN bên bán bỏ trốn để làm căn cứ xử lý chứ không phải cứ mua phải hóa đơn của DN bỏ trốn là DN mua hàng phải chịu hết.

Theo ông Xoa, nếu đã xuất hóa đơn nhưng không khai thuế đầy đủ, DN bên bán là con nợ của cơ quan thuế, chứ bên mua không phải chịu trách nhiệm vì việc này nằm ngoài tầm kiểm soát của bên mua. Việc yêu cầu bên mua phải giải trình khi bên bán bỏ trốn là không hợp lý

“Ngành thuế cần xem xét, nếu DN mua trước khi DN bên bán bỏ trốn thì phải chấp nhận cho DN đưa vào chi phí hợp lý hợp lệ. Trường hợp DN mua sau ngày DN bên bán bỏ trốn mới phải chịu loại ra khỏi chi phí. DN bên bán đã sử dụng hóa đơn có mã của cơ quan thuế nên cơ quan thuế cũng phải chịu trách nhiệm một phần”, ông Xoa đề nghị.

Cũng theo ông Xoa, ngành thuế nên thường xuyên rà soát theo từng tháng, từng quý. Nếu sau thời hạn phải nộp tờ khai mà báo cáo thuế không phù hợp với hóa đơn gửi lên, phải lập tức chỉ đạo chi cục thuế địa phương kiểm tra ngay. Như vậy, DN cùng lắm cũng chỉ có thể gian lận một quý, một tháng.

“Cơ quan thuế có đầy đủ công cụ, quyền lực và lực lượng để phát hiện sớm. Nếu xử lý chậm sẽ làm DN bị động, để sự việc trôi qua 2-3 năm rồi truy lại sẽ rất khó cho DN. DN phải lo làm ăn, đóng thuế cho ngân sách nhưng cứ lâu lâu lại bị mời lên giải trình chuyện ngoài tầm kiểm soát như vậy thì còn đâu tâm trí để làm ăn”, ông Xoa nói.

Mua thật thì… không sợ gì?

Theo ông Mai Xuân Thành – quyền tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, mỗi năm có khoảng 7 tỉ hóa đơn điện tử được xuất ra. Vì vậy, Tổng cục Thuế đã triển khai Trung tâm cơ sở dữ liệu hóa đơn điện tử với chức năng phân tích dữ liệu hóa đơn điện tử, phục vụ công tác quản lý rủi ro trong toàn ngành thuế. Trên hệ thống sẽ lưu vết lại để truy đến cùng những DN cố tình vi phạm mua bán hóa đơn để trục lợi, trốn thuế.

Tổng cục Thuế mới đây cũng nhận được công văn của Công an tỉnh Phú Thọ cho biết trong quá trình điều tra tội phạm mua bán trái phép hóa đơn điện tử, Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện một số cá nhân mua lại DN để phát hành hóa đơn, bán cho các cá nhân và tổ chức có nhu cầu. Do đó, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các cục thuế tập trung rà soát các hóa đơn xuất bán ra của 524 DN có rủi ro về hóa đơn điện tử, đồng thời rà soát, kiểm tra DN sử dụng hóa đơn của các đơn vị này.

Nếu phát hiện DN đã sử dụng hóa đơn của DN trong số 524 DN bị bêu tên, cơ quan thuế quản lý yêu cầu DN giải trình. Tuy nhiên, theo khẳng định của ông Thành, nếu DN có hoạt động mua – bán, có chuyển tiền, có nhập hàng về kho… thì không sợ gì.

Nguồn: tuoitre.vn

TP.HCM đã chạm đáy về tăng trưởng, nhưng cũng khó tăng tốc ngay

Tại phiên họp của UBND TP.HCM về tình hình kinh tế – xã hội 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023, diễn ra vào chiều 29/6, TS. Trần Du Lịch, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia đánh giá: Thời điểm này mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng tâm thế đã vui vẻ hơn 3 tháng trước. Vì kinh tế quý II đã phục hồi và Thành phố có Nghị quyết 98 thay thế Nghị 54 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM.

Ông kể, khi nhận được báo cáo tình hình phát triển kinh tế – xã hội 6 tháng của Thành phố, ông đã suy nghĩ khá nhiều. “Những số liệu kinh tế quý II của TP.HCM cho thấy, Thành phố đã chạm đáy về tăng trưởng và đang từ đáy đi lên. Tuy nhiên, nhanh hay chậm vẫn còn tùy thuộc vào các giải pháp thời gian tới”, TS. Trần Du Lịch nhận định.

Trong quý II, TP.HCM ghi nhận những chỉ số tích cực, như tăng trưởng quý II đạt 5,87%, cao hơn mức tăng trưởng của cả nước là 4,14%. Đặc biệt, ông Lịch cũng nhắc đến mức tăng của công nghiệp ghi nhận là 2,59%, dịch vụ tăng 4,96%, so với mức tăng trưởng âm trong quý I.

a
TS Trần Du Lịch cho rằng, quý II/2023 tăng trưởng không phải do nỗ lực của Thành phố đã làm trong những tháng qua mà tăng trưởng này là do sự chòi đạp của thị trường. Ảnh: Ngô Tùng

TS. Trần Du Lịch cũng điểm lại những kết quả chưa đạt được, trong đó ngành xây dựng giảm 8,45%, ngành kinh doanh bất động sản giảm 11,58%. Lý do ông nêu ra hai ngành này vì muốn thúc đẩy tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm 2023 thì phải tập trung thúc đẩy ngành xây dựng và thị trường bất động sản.

Tuy vậy, theo ông Lịch, không có một giải pháp nào của chính quyền tạo tăng trưởng nhất thời hết, bởi từ chính sách đến thực tiễn luôn luôn có độ trễ.

“Quý II tăng trưởng không hoàn toàn do nỗ lực của Thành phố trong những tháng qua, mà tăng trưởng này là do sự “chòi đạp” của thị trường, của doanh nghiệp. Còn những gì chúng ta làm là phục vụ cho những cái lâu dài hơn, vì không có một chính sách nào tác động ngay được”, ông nói.

Vị chuyên gia này cũng cho rằng, Thành phố đang đối diện nhiều khó khăn do những bất ổn của nền kinh tế thế giới. Hiện nay, “dự báo không chỉ trì trệ mà còn trì lạm, tức là vừa trì trệ, vừa lạm phát”.

Còn trong nước, nền kinh tế hiện nay tiếp tục khó lường, thị trường xuất khẩu giảm, “nỗ lực chính phủ rất tốt nhưng doanh nghiệp trong nước đang trong tình trạng đình đốn, đang bào mòn dần nguồn lực của họ. Thậm chí, tín dụng tăng cũng không phục vụ nỗi, khi tăng trưởng tín dụng đến nay mới đạt 3,36%”, ông Lịch phân tích.

Ngoài những khó khăn chung, ông Trần Du Lịch cũng cho rằng, Thành phố có khó khăn riêng. “Bộ máy hiện nay còn phải làm những công việc hiện tại, nhưng đồng thời phải giải quyết những tồn đọng trong quá khứ và xây dựng những đầu việc trong tương lai”, ông nói và cho rằng khối lượng công việc thực sự rất lớn.

Với những thách thức đã đưa ra, ông Lịch cho rằng, nếu đặt mục tiêu tăng trưởng cả năm cho Thành phố từ 7,5 – 8% thì rất khó, bởi tăng trưởng ngắn hạn chủ yếu phụ thuộc vào thị trường, còn chính sách thường có độ trễ nhất định nên những giải pháp cần hướng đến mục tiêu tăng trưởng trong năm sau.

“Trong chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội TP.HCM giai đoạn 2022 – 2025, thành phố đặt mục tiêu năm 2022 là phục hồi và năm 2023 là tăng tốc. Nhưng có lẽ chúng ta nên lỡ hẹn 1 năm, để tăng tốc trong năm 2024”, ông Lịch nói. Lý giải cho đề xuất này, TS. Trần Du Lịch cho rằng, riêng trong năm nay, cần đặt ưu tiên hỗ trợ thị trường, lựa chọn những giải pháp hỗ trợ, tạo hệ sinh thái cho doanh nghiệp phát triển.

GRDP 6 tháng đầu năm 2023 của TP.HCM tăng 3,55% so với cùng kỳ
GRDP 6 tháng đầu năm 2023 của TP.HCM tăng 3,55% so với cùng kỳ

Trước mắt, ông Lịch cho rằng, cần nhanh chóng đưa Nghị quyết 98 thay thế Nghị quyết 54 của Quốc hội. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra cái khó lớn nhất là làm sao nâng cao năng lực các cấp, bởi việc này liên quan đến tổ chức, còn người.

Một điểm nữa là tập trung tháo gỡ những dự án. Hiện nay, các dự án đầu tư công hay đầu tư tư nhân đều ngưng trệ nhiều năm, nhất là các dự án bất động sản. Chính quyền phải tháo gỡ thì mới tăng được cung, còn lực cầu thì cần phải có những chính sách khác đề kích cầu.

“Các dự án bất động sản đang cần phải tháo gỡ quyết liệt. Hiện nay, hai điểm nghẽn lớn là điều chỉnh quy hoạch và định giá đất”, ông Lịch nói và đồng thời cho rằng, Thành phố cũng cần nhanh chóng hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ thuế, gỡ vướng phòng cháy chữa cháy.

Đặc biệt, ông cũng khuyến nghị Thành phố tiếp tục thực hiện các đợt khuyến mãi nhằm kích cầu tiêu dùng, bởi đây là yếu tố cực kỳ quan trọng cho tăng trưởng cuối năm.

Nguồn: baodautu.vn

Chính thức giảm 36 khoản phí, lệ phí cho người dân, doanh nghiệp đến hết 31/12/2023

Để tiếp tục hỗ trợ cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp, người dân trong năm 2023, Bộ Tài chính đã quyết định tiếp tục thực hiện việc giảm các khoản phí, lệ phí trong năm 2023.

Cụ thể: tiếp tục giảm mức thu từ 10% – 50% so với mức thu hiện hành đối với 36 khoản phí, lệ phí. Thời gian áp dụng từ 1/7/2023 đến hết 31/12/2023.

Trong 36 khoản phí, lệ phí được giảm, có tới 21 khoản phí, lệ phí được giảm 50%, như: Lệ phí cấp giấy phép thành lập và hoạt động của ngân hàng; lệ phí cấp giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng phi ngân hàng; lệ phí cấp chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng cho tổ chức; lệ phí cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng cho cá nhân; phí thẩm định dự án đầu tư xây dựng (phí thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc phí thẩm định báo cáo kinh tế – kỹ thuật đầu tư xây dựng); phí thẩm định cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế, giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa; phí thẩm định cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch; phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán (trừ 2 khoản phí, lệ phí); lệ phí cấp phép nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh; lệ phí đăng ký nhập khẩu xuất bản phẩm để kinh doanh; lệ phí sở hữu công nghiệp…

Đối với phí sử dụng tần số vô tuyến điện, trường hợp tổ chức, cá nhân đã nộp phí theo mức phí quy định tại Thông tư số 265/2016/TT-BTC và Thông tư số 11/2022/TT-BTC cho khoảng thời gian có hiệu lực của thông tư này, tổ chức, cá nhân sẽ được bù trừ số tiền phí chênh lệch giữa mức phí theo quy định tại Thông tư số 265/2016/TT-BTC và Thông tư số 11/2022/TT-BTC với mức phí theo quy định tại Thông tư này vào số phí phải nộp của kỳ nộp phí tiếp theo. Tổ chức thu phí chịu trách nhiệm tính bù trừ tiền phí cho tổ chức, cá nhân vào kỳ nộp phí tiếp theo.

Theo Bộ Tài chính, dự kiến chính sách này sẽ làm giảm thu ngân sách khoảng khoảng 700 tỷ đồng.

Nguồn: baodautu.vn

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa công bố đánh giá nhanh về bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023. Chúng tôi đăng tải nguyên văn báo cáo để độc giả tiện theo dõi.

——–

Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2023

Trong 6 tháng đầu năm, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, song còn nhiều khó khăn, thách thức, phục hồi không đồng đều giữa các nền kinh tế và các lĩnh vực (lĩnh vực dịch vụ tăng trưởng tốt, trong khi hoạt động sản xuất phục hồi chậm, thậm chí suy giảm). Lạm phát tại hầu hết các nền kinh tế dần hạ nhiệt, trong bối cảnh giá hàng hóa giảm dần, các chuỗi cung ứng phục hồi. Tuy nhiên, xung đột tại Ukraina kéo dài, nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) các nước còn tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt, giữ lãi suất ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát; thị trường tài chính – tiền tệ toàn cầu rủi ro hơn sau đổ vỡ của một số ngân hàng tại Mỹ và Thụy Sỹ…v.v. Tuy vậy, một số dấu hiệu tích cực đối với kinh tế thế giới, đó là: (i) kinh tế Mỹ tăng trưởng khá, dự báo chỉ suy thoái kỹ thuật từ quý 4/2023 và tránh được nguy cơ vỡ nợ; (ii) kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại tăng sức cung và cầu; nhiều nền kinh tế đang phát triển duy trì được đà tăng trưởng nhờ tiêu dùng nội địa và du lịch; (iii) giá cả (nhấ là giá năng lượng), lạm phát và lãi suất hạ nhiệt rõ rệt, dù còn ở mức cao; và (iv) thị trường tài chính quốc tế cũng dần ổn định,…v.v.

Tuy nhiên, kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: (i) xung đột tại Ukraina dai dẳng và khó lường; (ii) NHTW nhiều nước duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát, lãi suất vẫn còn ở mức cao; (iii) nhiều đầu tàu kinh tế thế giới suy yếu hoặc phục hồi chậm hơn dự kiến ( kinh tế EU rơi vào suy thoái kỹ thuật, đà phục hồi của kinh tế Trung Quốc thiếu bền vững và chưa tạo được sự lan tỏa cho các nền kinh tế khác ); (iv) Đầu tư, thương mại quốc tế suy giảm; tâm lý tiết kiệm, phòng thủ tăng lên, khiến nhu cầu hàng hóa, dịch vụ giảm, ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu, sản xuất và du lịch tại nhiều nước; (v) rủi ro tài chính – tiền tệ trong tầm kiểm soát song ảnh hưởng tới niềm tin của người dân và nhà đầu tư; và (vi) biến đổi khí hậu với thời tiết khắc nghiệt, cực đoan cản trở đà phục hồi kinh tế của các nước.

Về triển vọng , các tổ chức quốc tế như IMF, WB, OECD nhận định tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 chậm lại, chỉ ở mức khoảng 2,1% (theo WB), 2,7% (theo OECD); một số nước có thể rơi vào “suy thoái kỹ thuật” trong nửa cuối năm, trước khi phục hồi và có thể tăng trưởng 2,4-3% năm 2024. Trong khi đó, lạm phát toàn cầu được dự báo giảm từ mức 7,3% năm 2022 xuống khoảng 5,5% năm 2023 và 3,7% năm 2024 (theo WB), song vẫn còn cao so với lạm phát mục tiêu của hầu hết các nước (khoảng 2%).

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023

Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức hơn là thuận lợi ở cả trong và ngoài nước; kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm dù vậy vẫn ghi nhận 6 điểm sáng sau.

Một là, Chính phủ quyết liệt, nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng. Trong 6 tháng đầu năm, trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng chậm lại; Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều cơ chế, chính sách tháo gỡ các điểm nghẽn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, với chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ nới lỏng, linh hoạt…v.v.

Cụ thể, Chính phủ đã ban hành: (i) Nghị định 07/2023/NĐ-CP ngày 3/3/2023 về quản lý trang thiết bị y tế, (ii) Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 4/3/2023 về bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế, (iii) Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ; (iv) Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/03/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững; (v) Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 3/4/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Quyết định 388/QĐ-TTg ngày 3/4/2023 phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội đến năm 2030; Nghị quyết 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025; (vi) Nghị quyết 82/NQ-CP năm 2023 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững…v.v.

Với chính sách tài khóa , Chính phủ ban hành Nghị định 12/NĐ-CP ngày 14/4/2023 về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm 1 số thuế, phí năm 2023 với tổng quy mô khoảng 198,4 nghìn tỷ đồng; Quốc hội cũng đã quyết nghị giảm 2% thuế GTGT trong 6 tháng cuối năm theo đề xuất của Chính phủ; Nghị định 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 về gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và Nghị định 41/2023/NĐ-CP theo đó giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước trong 6 tháng cuối năm…v.v.

Với chính sách tiền tệ , NHNN đã 4 lần giảm lãi suất điều hành (từ 0,5-1,5%) nhằm giảm lãi suất huy động và cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận và cung cấp vốn cho nền kinh tế. NHNN đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ (nhằm kiểm soát nợ xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân và doanh nghiệp) và Thông tư 03/2023/TT-NHNN (sửa đổi Thông tư 16/2021) nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư TPDN của các TCTD, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại cho thị trường TPDN. Cùng với đó, gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng của 4 NHTM lớn, cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1,5-2% cũng đã chính thức được hướng dẫn triển khai.

Hai là , lĩnh vực dịch vụ phục hồi tốt, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế: Lĩnh vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp gần 79% vào mức tăng trưởng chung 6 tháng đầu năm nhờ: (i) doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 18,7% (so với mức tăng 20,9% cùng kỳ năm 2022). Đáng chú ý, doanh thu dịch vụ lữ hành tăng gấp 1,66 lần cùng kỳ năm trước nhờ du lịch quốc tế phục hồi, Việt Nam đã đón gần 5,6 triệu lượt khách quốc tế, gấp hơn 9,3 lần so với cùng kỳ năm trước; (ii) lĩnh vực vận tải hành khách và vận tải hàng hóa cùng đạt mức tăng 15,9% so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng trưởng vận tải hành khách và vận tải hàng hóa lần lượt là 6,2% và 8,6% của cùng kỳ năm trước; (iii) lĩnh vực dịch vụ tài chính – ngân hàng – bảo hiểm tăng 7,13% so với cùng kỳ năm ngoái, đóng góp 0,4 điểm % vào mức tăng chung…v.v.

Ba là, lạm phát hạ nhiệt, được kiểm soát ở mức phù hợp CPI bình quân 6 tháng tăng 3,29 (từ mức tăng 4,89% tháng 1) so với cùng kỳ 2022, lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng tăng 4,74% (từ mức tăng 5,21% tháng 1) so với cùng kỳ năm trước. Xu hướng lạm phát giảm ngày càng rõ nét nhờ xu hướng hạ nhiệt của giá hàng hóa – dịch vụ thế giới, sự chủ động, đảm bảo nguồn cung các mặt hàng thiết yếu; lộ trình tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý được điều tiết hợp lý, tạo thêm dư địa mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ.

Bốn là, các cân đối vĩ mô được giữ vững, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định: Lãi suất huy động giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, với mức giảm 1,5-2,5% so với cuối năm 2022 (lãi suất huy động 12 tháng hiện nay phổ biến ở mức 6,3-7,6%/năm) khi: (i) NHNN 4 lần hạ lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn; (ii) thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện (tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 2,8%, huy động vốn tăng 3,5% so với cuối năm 2022) và nhu cầu tín dụng tăng thấp (tín dụng chỉ tăng 4%, thấp hơn nhiều mức tăng 9,44% của 6 tháng đầu năm trước) do hoạt động của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, đơn hàng ít và các TCTD vẫn phải duy trì điều kiện cho vay thận trọng khi điều kiện kinh doanh khó khăn, tiềm ẩn nợ xấu.

Trong nửa đầu năm 2023, tỷ giá cơ bản ổn định , trở về mức của tháng 9/2022 (trước khi xảy ra biến động mạnh về tỷ giá và lãi suất). Hết tháng 6/2023, tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,36%, trong khi tỷ giá trung tâm tăng 0,7% so với cuối năm 2022. Tỷ giá ổn định khi: (i) đồng USD trên thị trường quốc tế giảm (tính chung 6 tháng giảm 0,34% so với cuối năm 2022); (ii) nhu cầu thanh toán ngoại tệ ở mức thấp khi kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh (-18,2% so với cùng kỳ), thặng dư thương mại ở mức 12,25 tỷ USD; du lịch quốc tế phục hồi; dự trữ ngoại hối tăng lên khi NHNN tiếp tục tăng mua USD.

Năm là, giải ngân đầu tư công được thúc đẩy và cải thiện rõ nét. Trong 6 tháng đầu năm, giải ngân đầu tư công tiếp tục đạt được kết quả tích cực với mức thực hiện từ nguồn ngân sách ước đạt 232,2 nghìn tỷ đồng, bằng 33% kế hoạch năm và tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 32,1% và tăng 10,4%). Trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, kết quả giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm là điểm sáng tích cực, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2023.

Sáu là dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tình hình kinh tế – xã hội đang dần cải thiện , quý 2 tăng trưởng 4,14% cao hơn quý trước (3,32%); sản xuất Công nghiệp, chỉ số quản trị mua hàng (PMI), xuất – nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, tình hình doanh nghiệp qua tháng 5 và tháng 6 đã tốt dần lên so với tháng 4 và quý 1.

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023 - Ảnh 1.

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm ghi nhận nhiều điểm sáng

Bảy rủi ro, thách thức chính

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với rủi ro, thách thức chính.

Hai là, GDP tăng trưởng thấp hơn mục tiêu đề ra: tăng trưởng GDP quý 2/2023 ước đạt 4,14%, là mức rất thấp của quý 2 trong 12 năm qua ( chỉ cao hơn 0,34% của quý II/2020 – thời kỳ dịch Covid-19 ). Tính chung 6 tháng đầu năm, GDP tăng 3,72% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết 01 (là 6,2%), khi nhiều động lực tăng trưởng chậm lại (chủ yếu là do tổng cầu giảm và một phần là do nền tăng trưởng cao của nửa đầu năm 2022) cho thấy để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023 sẽ là thách thức rất lớn trong bối cảnh kinh tế giới rủi ro hơn và nội tại kinh tế Việt Nam còn nhiều điểm nghẽn (thị trường đất đai, chứng khoán, BĐS, xây dựng…) cần thời gian để tháo gỡ, đòi hỏi nỗ lực hơn nữa của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương cùng sự đồng lòng, quyết tâm của người dân và doanh nghiệp.

Ba là, xuất – nhập khẩu sụt giảm và chịu tác động tiêu cực rõ nét hơn: trong 6 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu đạt 316,7 tỷ USD, giảm 15,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 164,5 tỷ USD, giảm 12,1% ; nhập khẩu đạt 152,2 tỷ USD, giảm 18,2% . Nguyên nhân xuất khẩu giảm chủ yếu là do: (i) cầu thế giới giảm mạnh (do lạm phát cao, lãi suất cao, một số nước suy thoái kỹ thuật…), nhất là tại nhiều thị trường, đối tác chủ lực của Việt Nam [xuất khẩu sang Mỹ giảm (-22,6%), Hàn Quốc (-10,2%) và EU (-10,1%)..]; (ii) giá các mặt hàng XNK giảm (chỉ số giá xuất khẩu trong 6 tháng giảm 0,52%, chỉ số giá nhập khẩu giảm 3,85% so với cùng kỳ năm trước); (iii) chi phí logistics còn cao, tiến trình xanh hóa một số lĩnh vực còn chậm, khiến một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam kém cạnh tranh hơn các quốc gia khác. Điểm tích cực là cán cân thương mại thặng dư 12,25 tỷ USD , góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối, nhưng cũng cho thấy sức cầu sản xuất còn yếu trong bối cảnh đơn hàng xuất khẩu chưa phục hồi đáng kể.

Bốn là, thu hút FDI còn giảm: trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 13,43 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước (cải thiện so với mức giảm 7,3% và giảm 17,9% của 5 tháng và 4 tháng đầu năm), chủ yếu là do vốn đăng ký điều chỉnh đạt 2,93 tỷ USD giảm 57% so với cùng kỳ), trong khi vốn đăng ký cấp mới đạt 6,5 tỷ USD (tăng 31,3%) , vốn góp mua cổ phần đạt 4,01 tỷ USD tăng 76,6% ). Giải ngân vốn FDI đạt 10,02 tỷ USD tăng nhẹ 0,5% so với cùng kỳ năm trước, chứng tỏ các dự án hiện tại vẫn đang tích cực triển khai.

Năm là, thu NSNN giảm do kinh tế tăng trưởng thấp, DN gặp nhiều khó khăn. Thu NSNN trong 6 tháng đầu năm đạt 875,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54% dự toán, giảm ,8% so với cùng kỳ 2022 (chủ yếu là do thu nội địa, thu từ dầu thô và thu từ XNK giảm lần lượt là 4,7%; 15% và 20,6%). Chi NSNN đạt 804,6 nghìn tỷ đồng, bằng 38,8% dự toán năm, tăng 12,9% so với cùng kỳ 2022, chủ yếu là do tình hình giải ngân đầu tư phát triển tăng mạnh (+43,3%) so với cùng kỳ và chi thường xuyên tăng 5,5%. Tuy thu NSNN giảm nhưng NSNN vẫn thặng dư 71,2 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm, chủ yếu là do tỷ lệ chi đầu tư phát triển tuy đã cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp (chỉ đạt 29,7% dự toán năm).

Sáu là, doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn và ngày càng rõ nét hơn: Trong 6 tháng đầu năm, hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, do tác động của cả yếu tố bên ngoài và nội tại nền kinh tế, bao gồm: (i) sức chống chịu suy giảm sau 3 năm dịch bệnh; (ii) vướng mắc về pháp lý, môi trường kinh doanh khi tình trạng ngại sai, sợ trách nhiệm, giải quyết công vụ chậm của nhiều bộ phận công chức vẫn diện ra; (iii) các vấn đề về tài chính (mặt bằng lãi suất dần hạ nhiệt nhưng còn cao, khả năng hấp thụ vốn và đáp ứng điều kiện vay vốn ở mức thấp, thị trường TPDN thu hẹp); (iv) chi phí đầu vào vẫn ở mức cao trong khi thị trường đầu ra khó khăn, đơn hàng xuất khẩu giảm; (v) thị trường lao động gặp khó khăn khi DN phải giảm giờ làm, giảm lương, sa thải nhân viên…; và (vi) tình trạng cung ứng điện không ổn định, qui định phòng cháy chữa cháy, vấn đề đăng kiểm…dù đã dần khắc phục nhưng vẫn là nỗi lo của nhiều DN.

Bảy là, tín dụng tăng thấp, nợ xấu gia tăng dù trong tiên lượng và tầm kiểm soát: tín dụng 6 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 3,58% so với cuối năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,44% của cùng kỳ năm 2022 cho thấy nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn tín dụng còn rất yếu, mặc dù lãi suất cho vay đã giảm (như đã phân tích ở trên).

Theo NHNN, đến tháng 3/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 2,91% và nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa xử lý và nợ cơ cấu lại tiềm ẩn thành nợ xấu) khoảng 5% . Nợ xấu dù tăng nhưng trong tầm kiểm soát, đặc biệt khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép TCTD thực hiện cơ cấu thời hạn trả nợ, không chuyển nhóm nợ trong vòng 1 năm, chính sách này thực hiện đến thời điểm 30/6/2024, mức độ cơ cấu lại cần đáp ứng những điều kiện cụ thể và năng lực tài chính của TCTD. Thông tư 02 sẽ giúp cho tỷ lệ nợ xấu không bị tăng quá cao, giúp cho doanh nghiệp, bên vay có thể tiếp tục tiếp cận vốn để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các TCTD vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng phù hợp với thực chất khoản vay, theo lộ trình 50% năm 2023 và đủ 100% hết năm 2024. Điều này có ảnh hưởng phần nào đến lợi nhuận của các TCTD nhưng không nhiều do các TCTD cũng đã chủ động tăng trích lập dự phòng trong 3 năm qua và năng lực tài chính khá vững chắc, rủi ro TPDN và tín dụng BĐS cơ bản trong tầm kiểm soát.

Dự báo cả năm 2023

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, Nhóm tác giả dự báo tăng trưởng và lạm phát cả năm 2023 như sau.

– Tăng trưởng GDP trong bối cảnh quốc tế kém thuận lợi như nêu trên, với kết quả tăng trưởng khá thấp của 6 tháng đầu năm (3,72%) và mức nền cao của năm 2022, dự báo khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% cả năm 2023 như Quốc Hội, Chính phủ đã đề ra ( để đạt được mục tiêu này, tăng trưởng quý 3 và quý 4 phải đạt lần lượt khoảng 9,5% và 8,5%). Theo tính toán của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2023 (kịch bản cơ sở) ở mức khoảng 5-5,5% (thấp hơn so với dự báo 5,5-6% hồi tháng 3) trong đó tăng trưởng quý 3 có thể đạt 7-7,2% và quý 4 đạt 6,8-7%.

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023 - Ảnh 2.

– Lạm phát: với các yếu tố hỗ trợ đang chiếm ưu thế (các mặt hàng do Nhà nước quản lý tiếp tục được điết tiết hợp lý, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định…), chỉ số CPI 6 tháng cuối năm dự báo sẽ thấp hơn nửa đầu năm. Tuy nhiên, các yếu tố áp lực lạm phát vẫn còn (giá dầu và giá hàng hóa thế giới dù hạ nhiệt song còn cao; giá nguyên vật liệu trong nước có độ trễ so với đà giảm giá thế giới; lộ trình tăng giá của các mặt hàng do Nhà nước quản lý như giá điện, lương tối thiểu vùng, dịch vụ y tế, giáo dục…đã và đang tăng; cung tiền và vòng quay tiền cải thiện cùng với đà hồi phục sức cầu vào thời vụ cuối năm). Dự báo lạm phát cả năm nhiều khả năng sẽ tăng 3,8-4,2%, thấp hơn so với mục tiêu 4,5%. Điều này cũng góp phần củng cố dư địa cho các chính sách tài khóa và tiền tệ đang triển khai.

Sáu kiến nghị

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2023, . Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV có kiến nghị như sau:

Một là, cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Chính phủ; tổ chức thực hiện đúng thời hạn và tốt những quyết sách mà Quốc hội, Chính phủ đã ban hành như nêu trên; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân.

Hai là, các bộ ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế (nhất là các DNNN, dự án yếu kém, TCTD yếu kém…) nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn .

Ba là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng bao gồm: (i) đẩy mạnh giải ngân đầu tư công bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713 nghìn tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa , theo tính toán của Nhóm tác giả, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế , nhất là Hà Nội và TP. HCM (hai thành phố này đóng góp khoảng 39% tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2019 và có tính lan tỏa cao)…v.v.

Bốn là, tiếp tục phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác) nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, xây dựng, BĐS, lao động…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng. Theo đó, cần tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác đã ban hành (như nêu trên) cũng như chính sách hoàn thuế VAT…v.v.

Năm là, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: (i) khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, thủ tục hành chính, vướng mắc về qui định phòng cháy – chữa cháy, cung ứng điện, giảm mạnh tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, đùn đẩy…; (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; (iv) rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực; (v) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với doanh nghiệp hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý, thị trường đầu ra, tiếp cận vốn (đặc biệt là khả năng tiếp cận và năng lực hấp thụ vốn) và lao động.

Sáu là, xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam; đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là các luật đất đai, nhà ở, kinh doanh BĐS, TCTD…), bao gồm cả tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức.

H. Kim (ghi theo báo cáo của Nhóm tác giả)

Nguồn: Nhịp sống thị trường, cafef.vn

Triển lãm Chuỗi Công nghiệp Giấy Việt Nam lần thứ 10 (Paper Chain Vietnam 2023)

Triển lãm nằm trong chuỗi Triển lãm quốc tế Công nghiệp Việt Nam (VIIS 2023) do Trung tâm Thông tin hóa chất quốc gia Trung Quốc và Công ty CP Tổ chức Sự kiện và Hội chợ Toàn Cầu phối hợp tổ chức thường niên từ năm 2012. Về dự và tham gia lễ cắt bang khai mạc triển lãm có đại diện của Lãnh đạo Ban chấp hành Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam là ông Hoàng Trung Sơn – Chủ tịch VPPA và ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VPPA.

Phát biểu tại buổi khai mạc, ông Hoàng Trung Sơn – Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam nhấn mạnh:

Thứ nhất, ngành công nghiệp giấy tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ thông qua việc các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến, tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về các sản phẩm thân thiện với môi trường. Ngoài ra, Việt Nam là nước xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu tăng trưởng cao cũng đã và đang kéo theo sự gia tăng mạnh về nhu cầu giấy làm bao bì. Đây là sản phẩm phụ trợ cho các ngành hàng khác, đặc biệt là đối với các ngành có tỷ trọng xuất khẩu cao. Cụ thể là tốc độ phát triển trung bình của ngành giấy khoảng 10 – 12%/năm, riêng giấy bao bì khoảng 15 – 17%/năm. Nhiều dự án đầu tư công suất lớn đang hoạt động, với công suất mỗi dự án khoảng 400.000 – 500.000 tấn/năm; một số doanh nghiệp đang dự kiến đầu tư dự án với công suất trên 1.000.000 tấn giấy bao bì/năm. Sản xuất của ngành giấy đóng góp khoảng 1,5% giá trị GDP, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD.

Thứ hai, triển lãm này là cơ hội để giới thiệu cho ngành Giấy Việt Nam các thiết bị, công nghệ tiên tiến nhất với mục đích thiết lập và nâng cấp chuỗi cung ứng xanh, bền vững trong các lĩnh vực Giấy, In ấn, Bao bì của các quốc gia có nền công nghiệp Giấy tiên tiến như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ cùng các thương hiệu nổi tiếng. Thông qua triển lãm này, các Doanh nghiệp sản xuất giấy trong nước có cơ hội tiếp cận thiết bị, công nghệ tiên tiến để cải tiến hiệu quả hoạt động trong sản xuất kinh doanh của mình. Và đây cũng là cơ hội để các hãng thiết bị giới thiệu và quảng bá sản phẩm của mình, xúc tiến thương mại cho các Doanh nghiệp sản xuất, thương mại ở Việt Nam.

Cũng tại buổi triển lãm này, ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội đã trình bày các báo cáo bao gồm: phân tích thực trạng và tương lai phát triển của ngành giấy Việt Nam; ưu thế về khả năng sản xuất và tài nguyên của của ngành giấy Việt Nam. Ngoài ra, ông Lương Chí Hiếu – Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển VPPA cũng đã báo cáo và trình bày tại hội nghị báo cáo phân tích tình hình ngành giấy của Thế giới.

Ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VPPA phát biểu

Kết thúc buổi báo cáo tại triển lãm, một lần nữa ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam đã nhấn mạnh tầm quan trọng của buổi triển lãm này và hy vọng triển lãm này sẽ mang đến cho các doanh nghiệp ngành giấy, in ấn, đóng gói tại Việt Nam nhiều cơ hội gặp gỡ, trao đổi, hợp tác kinh doanh giá trị. Đồng thời, ông Đặng Văn Sơn cũng thông tin: Triển lãm “Vietnam paper day” là sự kiện quan trọng lớn nhất của ngành Giấy và Bột giấy hàng năm với mục tiêu tích hợp triển lãm quốc tế, hội thảo khoa học công nghệ, hội thảo kỹ thuật và hội nghị toàn thể nhằm mục đích cho phát triển ngành dự kiến được tổ chức tại Bình Dương vào năm 2024 và rất mong các doanh nghiệp/đơn vị ủng hộ và tham gia triển lãm này.

Ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VPPA báo cáo tại triển lãm

 

Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 2 nhiệm kỳ VII (2023-2028)

Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 2, Nhiệm kỳ VII (2023-2028) là hoạt động thường kỳ của Ban chấp hành Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam được tổ chức một quý một lần nhằm đưa ra các nội dung – chương trình hoạt động của Hiệp hội. Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 2 được tổ chức tại Tổng Công ty Giấy Việt Nam, tỉnh Phú Thọ.Tham dự Hội nghị lần này có đông đủ các thành viên trong Ban chấp hành. Hội nghị được diễn ra thành công trong bầu không khí đoàn kết, cởi mở dưới sự chủ trì của Đoàn Chủ tịch là ông Hoàng Trung Sơn – Chủ tịch Hiệp hội, ông Đặng Văn Sơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội và ông Phan Hưng – Phó Chủ tịch Hiệp hội.

Sau khi nghe Đoàn Chủ tịch báo cáo các nội dung và các ý kiến tham luận, đóng góp của các Đại biểu tham dự Hội nghị thì tại Hội nghị này, Ban chấp hành đã thông qua các nội dung chính của Hiệp hội như sau:

  1. Báo cáo Kiểm toán Tài chính 05 năm Khóa VI, Nhiệm kỳ (2018-2023) của của Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam.
  2. Quyết định phân công công tác trong Ban Lãnh đạo: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ban Chuyên môn của Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam Khóa VII, Nhiệm kỳ 2023-2028. Theo đó, Hội nghị quyết định thành lập các Ban chuyên môn bao gồm: Ban Hội viên – Tài chính, Tài trợ do ông Lương Văn Thành làm Trưởng ban, ông Đinh Như Kiêm làm Phó Trưởng ban; Ban Pháp chế – Chính sách do ông Lê Công Hoàng làm Trưởng ban, ông Hoàng Minh Thông làm Phó Trưởng ban; Ban Truyền thông – Quan hệ Quốc tế do ông Đặng Văn Sơn làm Trưởng ban và ông Liêu Kiên Cường làm Phó Trưởng ban; Ban Khoa học công nghệ – Đào tạo do ông Phan Hưng làm Trưởng ban và ông Cao Văn Sơn làm Phó Trưởng ban. Các ủy viên khác trong Ban chấp hành đều được cử tham gia vào làm ủy viên của các Ban chuyên môn.
  3. Thông qua Dự toán Thu – Chi tài chính năm 2023 và Kế hoạch Tài chính 05 năm 2023 -2028.

Ngoài các nội dung đã được thông qua nêu thì Hội nghị cũng đã thảo luận nội dung khác cụ thể như sau:

Về chương trình hoạt động của toàn Khóa VII, Nhiệm kỳ 2023-2038 và chương trình hoạt động của năm 2023. Theo đó, Hội nghị giao cho các Ban chuyên môn có trách nhiệm trong công tác chỉ đạo và phối hợp xây dựng xây dựng chương trình hoạt động của toàn khóa và từng năm và gửi về cho Văn phòng tổng hợp để báo cáo trình Ban chấp hành tại Hội nghị lần thứ 3, tháng 9 năm 2023; Thời gian muộn nhất là 15 tháng 8 năm 2023.

Về hội phí: Hội nghị quyết định giữ nguyên mức hội phí như cũ (10.000.000 đồng/hội viên/năm). Các Ủy viên Ban chấp hành, các Lãnh đạo Chi hội cùng với Văn phòng thúc đẩy các hội viên đóng hội phí đầy đủ và kịp thời trước 30 tháng 6 hàng năm.

Về việc tổ chức Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 3: Hội nghị sẽ được tổ chức vào thời gian khoảng từ ngày 15 đến 30 tháng 9 năm 2023 tại phía Nam. Thời gian, địa điểm sẽ được Lãnh đạo Ban chấp hành thông báo vào đầu tháng 9 năm 2023.

Họp Ban chấp hành Hiệp hội sẽ được tổ chức vào khoảng thời gian nửa cuối tháng của tháng cuối quý hàng năm (tức là: từ ngày 16 đến ngày 30 của tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12). Địa điểm: Phân chia luôn phiên các khu vực Bắc, Trung, Nam.

Về việc tổ chức triển lãm “Vietnam Paper Day” năm 2024: Văn phòng phối hợp với các bên liên quan xây dựng chương trình cụ thể và báo cáo Ban chấp hành vào Hội nghị lần thứ 3 năm 2023, tháng 9 năm 2023.

Kết thúc Hội nghị, thay mặt cho Đoàn Chủ tịch, ông Hoàng Trung Sơn – Chủ tịch Hiệp hội đã đề nghị các thành viên trong Ban chấp hành cũng như các Ban chuyên môn cùng với Văn phòng Hiệp hội phối hợp để xây dựng và thực hiện thắng lợi các chương trình hoạt động của Khóa VII, Nhiệm kỳ (2023-2028). Ông Lê Công Hoàng thay mặt đơn vị tổ chức đã mời các thành viên trong BCH dự bữa cơm trưa thân mật và giao lưu tại Khách sạn Giấy Bãi Bằng của Tổng Công ty Giấy Việt Nam.

Hội nghị tin tưởng rằng, với sự nỗ lực của các thành viên và các Ban chuyên môn và Văn phòng Hiệp hội thì Ban chấp hành sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chương trình hoạt động của khóa VII đã đề ra, đồng thời đưa ngành Giấy và Bột giấy Việt Nam có vị thế mới trong ngành giấy khu vực và trên Thế giới.

Nguồn: VPPA

Một số hình ảnh tại Hội nghị:

>>>Giấy Hoàng Hà Hải Phòng đặt mục tiêu kinh doanh tích cực năm 2023

Lee & Man khởi động dây chuyền bột bán hóa 1.000 tấn/ngày tại nhà máy Trùng Khánh, Trung Quốc

Dây chuyền – do Valmet cung cấp – bắt đầu sản xuất vào ngày 21 tháng 6.

Nhà máy Trùng Khánh cũng vận hành ba máy xeo giấy làm thùng sóng tái chế với tổng công suất 1,02 triệu tấn mỗi năm, một số máy xeo giấy tissue với tổng công suất 630.000 tấn/năm và một dây chuyền bột tre 180.000 tấn/năm.

Dây chuyền bột mới là dây chuyền bột gỗ thứ hai mà Lee & Man khởi động trong năm nay.

Vào tháng 5, công ty đã đưa dây chuyền bột giấy 1.000 tấn/ngày tại nhà máy của mình ở thành phố Cửu Giang, tỉnh Giang Tây vào hoạt động.

Công ty cũng đang xây dựng một dây chuyền bột 300.000 tấn/năm tại một nhà máy mới ở thành phố Sùng Tả, khu tự trị Choang Quảng Tây. Dây chuyền sẽ được khởi động trong quý III/2023.

Nguồn: Risi

Bản Tin VPPA tháng 06/2023

Trong bản tin số 6 – tháng 6/2023 bao gồm:

1. Giá xuất – nhập khẩu bột giấy và giấy

2. Tình hình sản xuất – kinh doanh ngành giấy trong nước

3. Tin tức đầu tư- kinh tế 

Quzhou Wuzhou xây dựng kế hoạch sản xuất bột Kraft tẩy trắng (BKP) công suất 600,000 tấn/năm tại Giang Tây, lắp đặt dây chuyển BKP (BM) tại tỉnh Hồ Bắc

Công ty DS Smith (DSS) sẽ đóng cửa nhà máy sản xuất bìa carton tái chế Trakia (RCCM) tại thị trấn Pazardzhik của Bulgary

ANDRITZ sẽ nâng cấp dây chuyền bột giấy tại nhà máy giấy Mkhondo của Mpact Operations ở Mpumalanga, Nam Phi

   >>> Xem BẢN TIN THÁNG 6/2023

Arauco của Chile dự kiến tăng giá 20-30 USD/tấn đối với USK, BHK nhập khẩu vào Trung Quốc; Giá BSK vẫn không thay đổi

Đề xuất tăng nhập khẩu BHK của nhà sản xuất Chile vào Trung Quốc đưa giá chào bán nguyên liệu của họ lên 535 USD/tấn và theo sau Suzano, công ty này cũng đã thông báo tăng 30 USD đối với nhập khẩu BHK vào tuần trước.

Arauco cho rằng USK tăng phần lớn là do việc đóng cửa tạm thời nhà máy Licancel của họ, nơi vận hành dây chuyền USK 160.000 tấn mỗi năm, theo Cơ sở dữ liệu tài sản của Nhà máy Licancel ở Región del Maule của Chile đã buộc phải đóng cửa do lũ lụt ở các khu vực lân cận sau nhiều ngày mưa lớn, làm hư hỏng một số tuyến đường chính và đường ray xe lửa, làm gián đoạn việc giao hàng từ nhà máy đến cảng được sử dụng để xuất khẩu, người bán hàng cho biết .

Theo các nguồn tin, việc đóng cửa nhà máy dự kiến sẽ kéo dài trong hai tuần.

Mức tăng $20/tấn sẽ đưa giá chào bán USK của Arauco lên $630/tấn.

Giá chào của Arauco cho thông radiata sẽ vẫn ở mức 680 USD/tấn.

Nguồn: Fast Market – Biên dịch và tổng hợp VPPA