Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam tổ chức thành công chuỗi sự kiện lớn

Ông Hoàng Trung Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam phát biểu trong Hội nghị toàn thể Hội viên

Theo ông Hoàng Trung Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, mặc dù không phải là một trong những ngành công nghiệp trọng yếu, nắm giữ vị trí then chốt của nền kinh tế, song các sản phẩm chính của ngành giấy như: giấy bao bì, giấy in, viết, tissue… lại là những sản phẩm thiết yếu trong đời sống xã hội.

gi1.jpg
Ông Đặng Văn Sơn, Phó Chủ tịch Hiệp Hội giấy và Bột giấy Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo Kỹ thuật ngành Công nghiệp Giấy

Những năm gần đây, ngành công nghiệp giấy Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Theo thống kê của Hiệp hội, trong 5 năm từ 2019 đến 2023 sản lượng sản xuất của ngành đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm 13,3%.

Tính riêng năm 2023 tổng sản phẩm giấy trong nước sản xuất đạt gần 7 triệu tấn, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia). Trong đó, giấy bao bì sản xuất hơn 6 triệu tấn chiếm 86% tổng sản lượng, đứng đầu Đông Nam Á. Xu hướng ngày càng phát triển của thương mại điện tử và xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam là những động lực chính dẫn đến nhu cầu giấy bao bì tăng trưởng mạnh mẽ và xu hướng này được dự đoán sẽ tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng mạnh trong nhiều năm tới.

Đại biểu check-in tại sự kiện

Ngành giấy và ngành bao bì là những ngành công nghiệp phụ trợ, đồng hành với nhiều ngành sản xuất và kinh tế khác, đặc biệt là đối với các ngành có tỷ trọng xuất khẩu cao, cần sử dụng giấy bao bì để đóng gói như: dệt may, da giày, đồ gỗ, nông thủy sản, linh kiện, thiết bị điện tử…

gi2.jpg

Từ trái sang Ông Đặng Văn Sơn, Ông Hoàng Trung Sơn, Ông Phan Đức Hiếu và Ông Cấn Văn Lực 

Hiện, ngành Giấy có hơn 500 doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp quy mô sản xuất từ 100 nghìn tấn/năm, nhiều dự án đầu tư công suất lớn đang hoạt động (công suất mỗi dự án khoảng 400.000 – 500.000 tấn/năm)…

Để đóng góp vào sự phát triển kinh tế Việt Nam, đáp ứng được thị trường cũng như phát triển bền vững, các đơn vị ngành Giấy luôn phải cố gắng, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đổi mới và cập nhật công nghệ, thiết bị mới.

Đặc biệt, sự kết nối giữa các ngành với nhau rất quan trọng nhằm tìm hiểu nhu cầu, mẫu mã sản phẩm, xúc tiến thương mại, trong đó sợi dây gắn kết với ngành bao bì là rất mật thiết và hữu cơ.

Chính vì điều đó, sau thời gian dài ấp ủ, ngày hôm nay, lần đầu tiên Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam đã có thể đồng hành cùng Hiệp hội Bao bì và Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam chủ trì tổ chức Triển lãm Quốc tế Giấy và Bao bì Việt Nam – VPPE 2024. Đây là lần đầu tiên 3 đơn vị tổ chức, nhưng có thể khẳng định, đây là sự kiện lớn, uy tín và tập trung vào các giải pháp và công nghệ mới nhất trong lĩnh vực ngành giấy và bao bì.

Lãnh đạo Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam cùng các đơn vị tài trợ

Bên cạnh triển lãm, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam cũng phối hợp tổ chức chuỗi sự kiện thường niên là Viet Nam Paper Day.

Viet Nam Paper Day 2024 gồm các sự kiện như Hội thảo kỹ thuật ngành công nghiệp giấy, Hội nghị toàn thể hội viên Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, Triển lãm Quốc tế Giấy và Bao bì Việt Nam – VPPE 2024, Thăm quan thực tế nhà máy sản xuất.

Quang cảnh hội nghị toàn thể hội viên

Để góp phần giúp các hội viên vượt qua những khó khăn thách thức về thị trường, đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao, xanh và bền vững về môi trường; Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam đã có sự đổi mới về hoạt động hội nghị toàn thể hội viên thông qua việc mời các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước tham dự với các bài tham luận chia sẻ kinh nghiệm, đánh giá về kinh tế vĩ mô, thị trường ngành giấy, cập nhật công nghệ mới từ các nước tiên tiến cũng như đưa ra các định hướng, khuyến nghị cho doanh nghiệp ngành giấy trong quá trình phát triển bền vững.

gi3.jpg

Chuyên gia báo cáo tại Hội thảo kỹ thuật

trước những khó khăn thách thức về thị trường, nhu cầu đổi mới công nghệ để đáp ứng các sản phẩm chất lượng cao và bền vững, xanh về môi trường, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam đã có sự đổi mới về hoạt động hội nghị toàn thể hội viên thông qua việc mời các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước tham dự và có các bài tham luận chia sẻ kinh nghiệm, đánh giá về kinh tế vĩ mô, thị trường ngành giấy, cập nhật công nghệ mới từ các nước tiên tiến cũng như đưa ra các định hướng, khuyến nghị cho doanh nghiệp ngành giấy trong quá trình phát triển bền vững. Đây được đánh giá là hoạt động ý nghĩa, đáp ứng được nhu cầu hội viên.

Có thể kể đến các bài báo cáo như của TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài Chính – Tiền tệ Quốc gia với bài tham luận: Kinh tế – chính sách Việt Nam năm 2024-2025: Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với ngành giấy; Ông Bill Moore – Thành viên của ISRI & Hiệp hội Công nghiệp Giấy tái chế Mỹ có bài tham luận: Giấy thu hồi và dự báo kinh tế, đầu tư trên thế giới; Bà Susan Cornish, Chuyên gia về Bao bì bền vững Mỹ với bài tham luận: Xu hướng tương lai cho giấy bao bì; Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) với đề tài “nóng” dành cho hội viên ngành giấy: Phát triển bền vững và những khuyến nghị cho doanh nghiệp ngành giấy.

Điểm nổi bật, chương trình talkshow được Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam tổ chức với những cuộc đối thoại có ý nghĩa và cung cấp những hiểu biết có giá trị về triển vọng phát triển nhanh chóng của thị trường ngành giấy Việt Nam, Châu Á và thế giới. Chương trình có sự tham gia của ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội với các nội dung liên quan chính sách Nhà nước đối với ngành giấy Việt Nam trong thời gian tới…

Đoàn Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam thăm quan Công ty TNHH Cheng Loong Bình Dương Paper

Với sự đổi mới này, có thể nói Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam đã đưa đến các hoạt động góp phần giúp doanh nghiệp ngành giấy vượt qua khó khăn, phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn. Đây được đánh giá là hoạt động ý nghĩa, đáp ứng được nhu cầu hội viên.

Link ảnh và các hoạt động của Viet Nam Paper Day 2024

https://drive.google.com/drive/u/1/folders/1epzlFB477heDoxGHCFd_jXtoZO04hBVO

https://drive.google.com/drive/folders/1djvEAGeBJis4sTz9V2vH3-ka2sHWOKpi

 

Nguồn: VPPA 

Gỡ điểm nghẽn, tăng cường năng lực nội sinh của nền kinh tế

Cần Quốc hội “ra tay”

Tại Kỳ họp thứ bảy, dự kiến khai mạc ngày 20/5 tới, Quốc hội sẽ thảo luận cả ở tổ và hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2024.

Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2024 tiếp tục là năm có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường chính trị – kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực lên triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế thế giới có thể tạo ra các cơ hội thuận lợi mới cho Việt Nam để phát triển kinh tế. Yêu cầu đặt ra là cần theo dõi sát, nắm bắt tình hình, dự báo sớm để điều chỉnh, phản ứng chính sách kịp thời, thích ứng cả trong ngắn hạn, trung và dài hạn.

Phản ứng chính sách kịp thời cũng là vấn đề được cả chuyên gia và đại biểu Quốc hội quan tâm thảo luận khi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chuẩn bị báo cáo thẩm tra về tình hình kinh tế, xã hội phục vụ Kỳ họp thứ bảy.

Từ thực tiễn địa phương, đại biểu Phạm Văn Thịnh, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy Bắc Giang, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nêu, Luật Bảo vệ môi trường và nghị định hướng dẫn thi hành luật quy định cứ chuyển đổi 1 m2 đất rừng hay đất lúa sang mục đích khác là phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Ông Thịnh cho rằng, báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ cần thiết khi dự án đó có nguy cơ gây hại cho môi trường, trong khi ở cấp xã thì xây dựng nhà văn hóa hay làm tuyến đường giao thông nông thôn, có khi chỉ lấy vài mét vuông đất lúa mà phải đánh giá tác động môi trường thì rất bất hợp lý.

“Cấp tỉnh thực hiện đánh giá tác động môi trường ít nhất phải mất 4 tháng và chi phí ít nhất khoảng 180 triệu đồng”, ông Thịnh nhấn mạnh. Theo ông, sự bất hợp lý này đã diễn ra hai năm qua mà chưa được giải quyết, do phản ứng chính sách quá chậm, nhưng “đó cũng chỉ là một trong muôn vàn ví dụ mà chúng ta phản ứng chính sách quá chậm mà thôi”.

Để gỡ “điểm nghẽn” này, vị đại biểu Bắc Giang cho rằng, cần tôn trọng nguyên tắc cơ bản trong quản trị, đó là không được để xung đột lợi ích. “Ví dụ, tôi kiến nghị lên cấp trên của tôi thì nên có cơ quan thứ ba đứng ra xem xét giải quyết, chứ không thể nào đợi chính cấp trên là người ban hành chính sách đó, quy định đó lại đứng ra giải quyết. Quốc hội nên có cơ quan thường trực để tiếp nhận những kiến nghị này và cho phép doanh nghiệp, người dân được phản ánh trực tiếp lên Quốc hội. Sau đó, Quốc hội sẽ mời các nhà khoa học, chuyên gia đã nghỉ hưu cùng phản biện và kiến nghị để Chính phủ điều chỉnh ngay, nên mạnh dạn như vậy”, ông Thịnh đề xuất.

Nêu kinh nghiệm của nhiều nước có các cuộc thi để người dân chỉ ra các bất hợp lý trong quản trị các ngành, lĩnh vực, nếu ai có sáng kiến giải quyết thì sẽ được thưởng, ông Thịnh cho rằng, vai trò của Quốc hội là phải thiết kế ra thiết chế để xã hội tự thúc đẩy một cách bền vững, chứ không phụ thuộc vào quyết tâm chính trị của một ai đó. Như thế sẽ bớt đi chuyện kiến nghị hợp lý, nhưng mãi không sửa đổi chính sách.

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho rằng, tình hình thế giới và trong nước có một số vấn đề cần được đánh giá đầy đủ hơn, để có nhận diện tình hình chính xác hơn, từ đó xác định giải pháp đúng và trúng cho các tháng còn lại của năm 2024, cũng như năm cuối giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội 2021 – 2025.

“Dù tăng trưởng kinh tế thế giới được dự báo “đi ngang” trong năm 2024, nhưng cũng có thuận lợi khi lạm phát giảm tương đối nhanh. Đây sẽ là một cơ sở để nhiều quốc gia xem xét giảm lãi suất, giúp giảm áp lực lãi suất và tỷ giá với các quốc gia đang phát triển trên thế giới, trong đó có Việt Nam”, ông Lực nhìn nhận.

Tăng cường năng lực nội sinh, năng lực thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế, theo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cũng là vấn đề trọng tâm ưu tiên trong điều hành kinh tế vĩ mô. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh lưu ý, trong những tháng còn lại của năm 2024, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy đầu tư công, mà trọng tâm là các dự án quan trọng quốc gia, để vừa kích tổng cầu trong ngắn hạn, vừa tạo cung dài hạn và hạn chế tác động phụ của các chính sách trọng cầu.

Vấn đề cũng rất quan trọng được ông Thanh nhấn mạnh là, tiếp tục kiến tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho khu vực tư nhân thông qua việc cắt giảm thực chất những điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh.

Gỡ điểm nghẽn ngân hàng yếu kém

Tại Dự thảo báo cáo thẩm tra về tình hình kinh tế, xã hội phục vụ phiên họp toàn thể vừa qua, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã chỉ ra 10 vấn đề cần được quan tâm, đánh giá kỹ hơn. Những đánh giá thẳng thắn này đã nhận được sự đồng tình của các ý kiến tại phiên họp. Theo đó, dự thảo báo cáo thẩm tra nêu rõ, chậm xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém là một trong số điểm nghẽn chưa được tháo gỡ hiệu quả.

Cần phải nói thêm rằng, nhiều năm nay, tiến độ ì ạch trong cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém luôn được đề cập tại nghị trường trong sự sốt ruột của đại biểu Quốc hội.

Vào tháng 10/2023, đánh giá giữa kỳ kết quả thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, thông tin được đưa ra là đã phê duyệt chủ trương chuyển giao bắt buộc đối với 4 ngân hàng được kiểm soát đặc biệt, gồm CBBank, OceanBank, GPBank và DongABank; đang chuẩn bị phê duyệt phương án cơ cấu lại các ngân hàng này theo trình tự, thủ tục quy định. Đối với SCB, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương cơ cấu lại theo quy định.

Lúc đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đánh giá, việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém chậm cũng có tác động tiêu cực đến thị trường tiền tệ, ảnh hưởng đến việc tiết giảm chi phí, hạ lãi suất của các tổ chức tín dụng.

Nay, tại báo cáo hoàn thành giữa tháng 4/2024, Ngân hàng Nhà nước cho biết, cơ quan này đang chỉ đạo các đơn vị khẩn trương hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền phương án chuyển giao bắt buộc của 3 ngân hàng mua bắt buộc và DongABank; tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện dự thảo tờ trình của Chính phủ về chủ trương cơ cấu lại SCB.

Thêm một lần, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh, việc triển khai Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 – 2025 và phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém còn rất chậm. “Bên cạnh 4 ngân hàng mua bắt buộc, giờ thêm SCB, mỗi ngày đều phải nuôi mấy anh ốm yếu dặt dẹo này rất nhiều tiền, rất tốn kém”, ông Vũ Hồng Thanh nói.

Trong các nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị, tiếp tục triển khai quyết liệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 – 2025, tập trung thực hiện phương án xử lý các ngân hàng yếu kém.

Nợ xấu có xu hướng gia tăng

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu có xu hướng gia tăng. Nợ xấu đang tập trung chủ yếu ở các tổ chức tín dụng yếu kém, tuy nhiên, chưa thể xử lý nhanh được do nhiều khoản nợ liên quan đến vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh và khả năng trích lập dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng còn nhiều hạn chế. Còn thiếu các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu; thị trường mua bán nợ chưa thực sự phát triển. Đến cuối tháng 1/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 4,79% (tháng 12/2023 là 4,55%).

Nguồn: Báo đầu tư

Thủ tướng chỉ thị “5 tăng, 5 giảm” để thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 2/5/2024 về triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Năm 2023, đất nước ta đạt được những kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng tiền Việt Nam cơ bản ổn định, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách trong tầm kiểm soát… Đầu năm 2024, các tín hiệu tiếp tục cho thấy nền kinh tế đang phục hồi trên tất cả các lĩnh vực. Những thành quả này có được là nhờ nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với sự đồng lòng, ủng hộ của người dân, doanh nghiệp.

Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm 2021 – 2025. Trong bối cảnh dự báo tình hình kinh tế thế giới còn rất nhiều khó khăn, để đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi quyết tâm, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị với phương châm “5 tăng” gồm: (i) Tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ tín dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới; (ii) Tăng cường tháo gỡ vướng mắc pháp lý và chất lượng tín dụng; (iii) Tăng cường phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và năng lực quản trị điều hành của ngân hàng, của thị trường tài chính; (iv) Tăng công khai, minh bạch về lãi suất huy động, cho vay và chống tín dụng đen; (v) Tăng cường giám sát, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro, chống tham nhũng, tiêu cực.

Đồng thời, thực hiện “5 giảm” gồm: (i) Giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý; (ii) Giảm chi phí giao dịch, hoạt động; (iii) Giảm thủ tục hành chính; (iv) Giảm phiền hà, sách nhiễu; (v) Giảm tiêu cực, lợi ích nhóm, “sân sau”…; “5 tăng tốc, bứt phá” gồm: (i) Tăng tốc bứt phá về số hóa; (ii) Tăng tốc bứt phá chất lượng dịch vụ; (iii) Tăng tốc bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực; (iv) Tăng tốc bứt phá về hạ tầng ngân hàng; (v) Tăng tốc bứt phá về phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân, góp phần tăng trưởng kinh tế.

Quan điểm chỉ đạo điều hành xuyên suốt là: (i) Bám sát tình hình và yêu cầu thực tiễn, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả; (ii) Không chủ quan, kiên trì, kiên định, kiên quyết thực hiện được các mục tiêu chiến lược đề ra; (iii) Không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, nhanh chóng “xoay chuyển tình thế”, “chuyển đổi trạng thái”; (iv) Giữ vững đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng.

Các bộ, cơ quan, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tập thể, cá nhân liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao, triển khai ngay và thực hiện tốt các nhiệm vụ, công việc sau đây:

1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

a) Quán triệt và quyết liệt triển khai đầy đủ, hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ theo các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị; các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, nhất là các Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2024, Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2024 và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, tỷ giá, lãi suất, thị trường vàng…, các Công điện số 1426, 23 về các giải pháp quản lý thị trường vàng, Công điện số 18 về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024.

b) Theo dõi sát tình hình thế giới, trong nước để dự báo và điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, nhất là điều hành hài hòa, hợp lý giữa lãi suất và tỷ giá. Điều hành tăng trưởng tín dụng hiệu quả gắn với ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống tổ chức tín dụng.

c) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng, thực hiện ngay công tác thanh tra, kiểm tra đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng, kiện toàn hệ thống thanh tra, kiểm tra bảo đảm thông suốt, gắn kết từ Trung ương đến địa phương, hiệu lực, hiệu quả.

d) Kịp thời rà soát, xây dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 để triển khai thực hiện đồng bộ từ ngày 01 tháng 7 năm 2024 khi Luật các Tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành.

đ) Đẩy mạnh công tác truyền thông về các cơ chế, chính sách về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng; trong đó chú trọng đến các chính sách mới, các chính sách tác động trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp như chính sách tỷ giá, tín dụng, lãi suất, tiết kiệm, vay vốn, thanh toán… bằng các hình thức truyền thông đa dạng, phong phú, đảm bảo tính minh bạch, phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định của pháp luật.

e) Chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ, ngành có liên quan đánh giá kết quả thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ về chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.

f) Chỉ đạo các tổ chức tín dụng:

– Triển khai tích cực các giải pháp tăng trưởng tín dụng, hướng tín dụng vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn, hiệu quả và kiểm soát rủi ro thanh khoản.

– Tiếp tục tiết giảm chi phí, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay ở mức hợp lý; thực hiện nghiêm túc việc công bố công khai, minh bạch lãi suất cho vay bình quân để doanh nghiệp, người dân thuận lợi trong việc lựa chọn ngân hàng cho vay có lãi suất thấp, phù hợp yêu cầu sử dụng vốn tín dụng.

– Dành thời gian, công sức tập trung rà soát, phân loại các dự án bất động sản để kịp thời có giải pháp tín dụng phù hợp đối với từng doanh nghiệp, từng dự án đủ điều kiện; có giải pháp tín dụng phù hợp đối với các dự án BOT, BT giao thông khả thi, hiệu quả, lĩnh vực xăng dầu; tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách…

– Tăng cường cho vay phục vụ đời sống, tiêu dùng, đẩy mạnh triển khai cho vay qua các hình thức điện tử, trực tuyến. Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ tín dụng ngân hàng phù hợp từng phân đoạn khách hàng và thị trường, loại hình, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, nhất là các nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của người dân.

– Đẩy mạnh triển khai các chương trình, đề án, chính sách tín dụng như: Chương trình tín dụng 30.000 tỷ đồng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản; Chương trình tín dụng góp phần thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” theo Quyết định 1490/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo lại chung cư cũ để góp phần thực hiện Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030”…

– Tích cực, chủ động triển khai có hiệu quả, thiết thực chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp bằng các hình thức phù hợp.

– Tiếp tục triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23 tháng 4 năm 2023, đảm bảo kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp và người vay vốn gặp khó khăn, đồng thời không để trục lợi, làm sai quy định và sai lệch bản chất, nợ xấu.

– Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của các tổ chức tín dụng nhà nước; tăng cường trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh của tổ chức tín dụng trong việc chia sẻ, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp theo quan điểm “Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”.

2. Bộ Tài chính:

a) Tiếp tục điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, phối hợp đồng bộ, hài hòa, linh hoạt, chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

b) Khẩn trương rà soát, hoàn thiện các quy định liên quan đến chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn hiệu quả của doanh nghiệp.

c) Phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

3. Bộ Xây dựng:

a) Khẩn trương rà soát, sửa đổi hoặc trình cấp thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản; tinh thần là giảm cấp trung gian, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, kịp thời tiến độ triển khai Luật.

b) Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ, ngành và địa phương có giải pháp thiết thực, hiệu quả triển khai Đề án xây dựng 01 triệu căn nhà ở xã hội; triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2023 của Chính phủ; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy giải ngân gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

a) Tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.

b) Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa quy trình đầu tư và thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.

5. Bộ Công Thương:

a) Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, sản phẩm, chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại các thị trường truyền thống, tạo bước đột phá mở rộng thị phần tại các thị trường mới, còn tiềm năng.

b) Tổ chức các chương trình khuyến mại trên phạm vi toàn quốc để phối hợp với các địa phương tăng cường kết nối cung cầu, kích cầu tiêu dùng trong nước, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước.

c) Về việc xây dựng cơ chế mua bán điện trực tiếp, kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII: Bộ Công Thương khẩn trương xây dựng nghị định của Chính phủ quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện với khách hàng sử dụng điện lớn theo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 112/TB-VPCP ngày 22 tháng 3 năm 2024 và ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại văn bản số 1943/VPCP-CN ngày 25 tháng 3 năm 2024, trình Chính phủ trong tháng 5 năm 2024.

d) Tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt trong Quyết định số 262/QĐ-TTg ngày 01 tháng 4 năm 2024, đồng thời phối hợp với các địa phương hoàn thiện phụ lục các kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10 tháng 5 năm 2024.

6. Bộ Công an:

a) Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương có các giải pháp ngăn chặn, xử lý tình trạng sở hữu chéo, thao túng tại các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và an ninh tài chính, tiền tệ.

b) Đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Đề án 06, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trong đó trọng tâm là triển khai Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ.

7. Bộ Tài nguyên và Môi trường:

a) Khẩn trương trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định chi tiết Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản, nhất là quy định liên quan thủ tục với mỏ vật liệu xây dựng thông thường bảo đảm phù hợp với thực tiễn, đúng quy định pháp luật.

b) Xây dựng, hoàn thiện Hệ thống thông tin về đất đai, phối hợp với Bộ Xây dựng để kết nối với Hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản.

8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến thủ tục công bố, hợp quy thuốc thú y; theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường, chủ động chỉ đạo các giải pháp linh hoạt tháo gỡ khó khăn, bảo đảm sản xuất, thúc đẩy, tiêu thụ, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.

9. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

a) Phối hợp chặt chẽ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng, người dân, doanh nghiệp trong hoạt động ngân hàng, nhất là hoạt động tín dụng và các dịch vụ thanh toán.

b) Ưu tiên nguồn lực tháo gỡ khó khăn trong hoạt động phục vụ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp dưới các hình thức phù hợp; tập trung ngăn chặn nạn tín dụng đen…

c) Phối hợp với Bộ Tài chính triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

d) Chỉ đạo, tạo điều kiện hỗ trợ vốn uỷ thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện tốt các chương trình tín dụng thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia.

10. Các tổ chức kinh tế và người dân:

a) Thực hiện sản xuất kinh doanh đúng pháp luật, linh hoạt, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, tiếp tục đổi mới công tác quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác.

b) Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng để tăng khả năng tiếp cận tín dụng, sử dụng hiệu quả vốn tín dụng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của người vay vốn.

 

Nguồn: Báo đầu tư

Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp

Sự kiện do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì, được kết nối với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Hội nghị còn có sự tham dự của đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Công an; đại diện các cục, vụ chức năng thuộc Bộ Công Thương.

Khai mạc Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì Hội nghị

Theo Cục Công thương địa phương, dưới sự chỉ đạo của Đảng, sự vào cuộc của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, thời gian qua công tác quản lý, phát triển cụm công nghiệp đã từng bước có bước chuyển mạnh mẽ và đạt được những kết quả tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp; đóng góp cho ngân sách cũng như GDP, tạo mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ cá thể mở rộng và phát triển sản xuất và có điều kiện đầu tư công nghệ mới kết hợp với công nghệ cổ truyền sản xuất các mặt hàng mới phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu; tạo điều kiện xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề, đồng thời giải quyết nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn; góp phần bảo vệ môi trường… Đặc biệt đã góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước “ly nông bất ly hương” và xây dựng nông thôn mới.

Với vai trò là cơ quan quản lý ngành, Bộ Công Thương đã tham mưu, nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý, phát triển cụm công nghiệp, trong đó phải kể đến Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.

Tuy nhiên, quá trình việc triển khai thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP đã gặp vướng mắc, khó khăn do chưa đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành như Luật Đầu tư, Xây dựng, pháp luật Đất đai,… và một số nội dung, quy định của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP về phương án phát triển CCN; điều kiện thành lập, mở rộng CCN; chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN; xử lý CCN hình thành trước Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg, … cũng cần được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung lại cho phù hợp với yêu cầu quản lý CCN và các yêu cầu mới.

Tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển bền vững các CCN được ở các văn bản như: Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta 10 năm 2011-2020, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030; Kết luận số 54-KL/TW ngày 07/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045…

Khai mạc Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp
Ông Ngô Quang Trung, Cục trưởng Cục Công Thương địa phương phát biểu tại hội nghị

Đồng thời thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, đồng thời hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, phát triển CCN; đảm bảo quy hoạch, phát triển CCN bền vững, trật tự, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương; kịp thời tháo gỡ những bất cập phát sinh trong thực tiễn, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2024/NĐ-CP về quản lý, phát triển CCN (Nghị định số 32/2024/NĐ-CP), thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.

Nghị định số 32/2024/NĐ-CP gồm 7 Chương và 38 Điều. Bên cạnh quy định chung, Nghị định quy định Phương án phát triển, thành lập, mở rộng CCN; Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, trong đó quy định về việc xác định chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; trình tự đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của CCN; quy hoạch chi tiết xây dựng CCN; quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; quản lý các dịch vụ công cộng, tiện ích; quyền của chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; nghĩa vụ của chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN.

Khai mạc Hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định số 32 về cụm công nghiệp
Ông Nguyễn Văn Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương báo cáo nội dung Nghị định

Nghị định cũng quy định về đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN bao gồm tiếp nhận dự án đầu tư vào CCN; thuê đất, cấp giấy phép xây dựng trong CCN; quyền của tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN; quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, Nghị định cũng đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN.

Về công tác quản lý nhà nước đối với CCN, Nghị định quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước về CCN của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành; quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Bộ Công Thương và các Bộ khác liên quan (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Công an), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Công Thương và Ủy ban nhân dân cấp huyện…

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2024; thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP; các nội dung về quy định chuyển tiếp được quy định tại Điều 35 của Nghị định

Trong khuôn khổ Hội nghị, đại diện Cục Công Thương địa phương cũng thông tin, phổ biến về một số nội dung cơ bản trong Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 32/2024/NĐ-CP; một số nội dung Nghị định số 43/2024/NĐ-CP ngày 19/4/2024 quy định chi tiết về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ mới được ban hành.

Nhóm phóng viên báo Công Thương

Hỗ trợ lãi suất 2%: Kỳ vọng rất lớn, kết quả rất thấp

Kỳ vọng rất lớn, kết quả rất thấp, nhận xét này được đoàn giám sát của Quốc hội dành cho gói hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội.

Kết quả giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội về “Việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023”, là nội dung được Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét vào sáng 22/4.

Ý kiến nhiều chiều từ khi Nghị quyết đang còn dự thảo, đến khi thực hiện, chính sách hỗ trợ lãi suất (2%/năm) tối đa 40 nghìn tỷ đồng qua hệ thống ngân hàng thương mại cho một số ngành, lĩnh vực quan trọng, có thể coi là thất bại.

Đoàn giám sát cho biết, số liệu thực hiện đến ngày 31/12/2023, số hỗ trợ lãi suất của chính sách đạt khoảng 1.218 tỷ đồng cho gần 2.300 khách hàng, chỉ bằng 3,05% gói hỗ trợ.

Đoàn giám sát nhấn mạnh, gói hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại là một trong những giải pháp được kỳ vọng rất lớn trong hỗ trợ doanh nghiệp, người dân giảm chi phí kinh doanh, khôi phục sản xuất, hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế; Tuy nhiên, kết quả thực hiện đạt rất thấp, không đi vào thực tế cuộc sống, kết quả thực hiện chỉ đạt 3,05% tổng quy mô nguồn lực (40.000 tỷ đồng).

“Đây là nội dung cần rút kinh nghiệm và làm rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc nghiên cứu, dự báo, đề xuất chính sách không sát với thực tiễn, gây lãng phí nguồn lực, làm giảm hiệu quả của Chương trình”, báo cáo nêu rõ.

Đề cập nguyên nhân, đoàn giám sát dẫn báo cáo của Chính phủ, là khách hàng đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách, chủ yếu do tâm lý e ngại công tác thanh tra, kiểm tra (đặc biệt là doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất (phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Đồng thời, khách hàng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất do số tiền này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông.

Nguyên nhân nữa là khó khăn trong việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện “có khả năng phục hồi” theo quy định tại Nghị quyết 43 trong khi các văn bản hướng dẫn không có tiêu chí cụ thể. Khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ nhưng cũng không thể khẳng định có khả năng phục hồi, khách hàng được hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí nêu trên làm cho ngân hàng thương mại và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá trục lợi chính sách.

Năm 2022, tình hình kinh tế xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các đối tượng ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất nói riêng có nhiều chuyển biến so với thời điểm ban hành Nghị quyết 43 và Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường sau dịch COVID-19 dẫn đến nhu cầu được hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách (thay vì nhu cầu hỗ trợ lãi suất thì có nhu cầu được hỗ trợ trực tiếp hoặc giảm thuế, phí, lệ phí).

Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các ngân hàng thương mại, tuy nhiên không đăng ký hộ kinh doanh nên không thuộc đối tượng hỗ trợ

Một số khách hàng có năng lực tài chính, lịch sử tín dụng tốt, được ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi nên lựa chọn không thụ hưởng chính sách do tự đánh giá đã được cho vay với lãi suất phù hợp theo các chương trình ưu đãi của ngân hàng thương mại.

Bên cạnh những nguyên nhân Chính phủ đã nêu, báo cáo nêu rõ, qua giám sát cho thấy, công tác hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách còn nhiều lúng túng.

Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, một số ngân hàng thương mại ban hành văn bản nội bộ hướng dẫn còn chậm (MBBank, NCB, VIB, HSBC, Publicbank), chưa thực sự chú trọng tập huấn, hướng dẫn đào tạo nội bộ (NCB).

Một số ngân hàng chưa thực sự chủ động tiếp cận, đồng hành, hướng dẫn khách hàng hiểu đúng, đủ về chính sách , chưa kịp thời khắc phục, báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh chính sách khi có vướng mắc phát sinh.

Vẫn theo đoàn giám sát, công tác truyền thông chưa thực sự được chú trọng, chưa mang tính định hướng, không đẩy mạnh truyền thông sâu rộng đến từng khách hàng đủ điều kiện hỗ trợ lãi suất.

Dẫn lại thông tin từ Ủy ban Kinh tế, đoàn giám sát nêu, kết quả khảo sát doanh nghiệp của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ có 29,5% doanh nghiệp biết tới chính sách này, trong đó có khoảng 2% doanh nghiệp đã nhận được khoản vay theo Chương trình hỗ trợ lãi suất 2%. Có tới 56,7% doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay theo gói hỗ trợ này. Đa số các doanh nghiệp cho biết điều kiện cho vay khó khăn là trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay theo gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Theo đoàn giám sát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trong tham mưu đề xuất, báo cáo Quốc hội xem xét quyết định chính sách chưa sát với thực tiễn, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Nguồn: Báo đầu tư

Vốn FDI chảy mạnh vào dự án dệt may

Vốn chảy vào các dự án thượng nguồn

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Yi Da Denim Mill  (VN) Co.Ltd triển khai dự án sản xuất các sản phẩm dệt may tại Khu công nghiệp Dệt may Rạng Đông (Nghĩa Hưng) được Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Nam Định cấp trong tháng 2/2024. Theo giấy chứng nhận, Dự án có tổng vốn đăng ký 1.467 tỷ đồng, chia làm 3 giai đoạn.

Giai đoạn I của Dự án có mức đầu tư hơn 880 tỷ đồng, thực hiện đầu tư sản xuất vải có nhuộm, vải không nhuộm và quần áo, sẽ đi vào sản xuất chính thức từ quý III/2026. Các giai đoạn sau của Dự án dự kiến được thực hiện từ quý IV/2026 đến quý IV/2030. Đây là dự án được đầu tư bởi Tập đoàn Crystal, Hồng Kông (Trung Quốc).

Trước khi đầu tư dự án ở Nam Định, Tập đoàn Crystal đã có nhà máy hoạt động tại Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, Phú Thọ và Bình Dương, với tổng doanh thu xuất khẩu tại Việt Nam khoảng 1 tỷ USD, giải quyết việc làm cho 40.000 lao động.

Công ty khóa kéo hàng đầu thế giới YKK đã đầu tư thêm nhà máy thứ hai tại Việt Nam, đặt tại Khu công nghiệp Đồng Văn (Hà Nam), với quy mô và công nghệ hiện đại hơn hẳn nhà máy đã đầu tư tại Đồng Nai. Ông Yuji Furukawa, Tổng giám đốc YKK Việt Nam cho biết, sau 25 năm hiện diện, YKK Việt Nam tăng sản lượng dây khóa kéo gấp 100 lần, tăng số lượng nhân sự gấp bảy lần, với 2.800 người.

Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) nhận định, vốn FDI vào lĩnh vực dệt may tăng nhanh trong quý IV/2023 và quý I/2024l. Trong khi các dự án vải, khoá kéo, chỉ may mở rộng đầu tư, thì vốn vào ngành sợi có sự chững lại. Một số dự án đã đầu tư trong năm 2022-2023 bắt đầu hoàn thành, đưa vào sản xuất, giúp nâng cao năng lực cung ứng của ngành và tạo cú hích cho các dự án mới.

Mới đây, Tập đoàn SAB (Trung Quốc) đưa vào hoạt động Nhà máy công nghiệp SAB Việt Nam tại Khu công nghiệp Bỉm Sơn (Thanh Hóa). Nhà máy được khởi công từ tháng 7/2022, có quy mô diện tích 66,44 ha, tổng vốn đầu tư khoảng 62 triệu USD. Nhà máy chuyên sản xuất phụ kiện quần áo như dây khóa kéo kim loại, dây khóa kéo nhựa, dây khóa kéo nylon, cúc nhựa, cúc kim loại… Dự án đi vào vận hành giúp làm giảm nhập khẩu các loại nguyên liệu này của ngành dệt may.

Cú hích từ các FTA

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Vitas đánh giá, nhiều nhà sản xuất dệt may quốc tế đã và đang mở rộng hoạt động tại Việt Nam để tận dụng lợi thế về môi trường đầu tư, lao động và độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn. “Tôi cho rằng, loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP mà Việt Nam là thành viên là động lực thu hút các nhà đầu tư trong nước, cũng như nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phân khúc nguồn cung thiếu hụt của ngành dệt may”, ông Giang nói.

Theo ông Yuji Furukawa, trước đây, YKK Việt Nam phải nhập một số sản phẩm đầu khóa kéo từ các công ty YKK nước ngoài để cung cấp cho các khách hàng nội địa, nhưng hiện nay, nhà máy ở Việt Nam đã sản xuất đa phần các sản phẩm của YKK.  Ngoài “xuất khẩu tại chỗ”, sản phẩm còn được xuất khẩu sang các nước như Campuchia và Myanmar.

Cùng với việc giúp ngành dệt may giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, nguồn vốn FDI còn góp phần giải quyết một số vấn đề trọng yếu: thời gian sản xuất nhanh hơn, chi phí vận chuyển thấp hơn, giá cạnh tranh hơn, tận dụng ưu đãi thuế quan từ 15 FTA hiện hành.

Được biết, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đang dần phục hồi sau năm 2023 tăng trưởng âm. Quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt gần 8 tỷ USD, tăng 7,9%; xuất khẩu xơ sợi dệt đạt 1,05 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp FDI đóng góp trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Nguồn: Báo đầu tư

Việc làm trong ngành giấy tăng 10,9% từ năm 2012 đến năm 2022

Năm 2012, con số này là 574.800 người, trong đó phần lớn (559.700) là người làm công và số còn lại đăng ký là người tự kinh doanh (14.600). Không rõ 500 cá nhân còn lại là nhân viên hay tự kinh doanh.

Năm 2022, có 637.300 người đang làm việc trong ngành. Trong số này, 622.700 người là nhân viên, mang lại mức tăng 11,3% (+63.000) cho ngành kể từ năm 2012. Những người tự kinh doanh làm việc trong ngành giấy, có mức giảm nhẹ (-300; -2,1%) .

Ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy chiếm 19,9% toàn ngành liên quan đến lâm nghiệp và công nghiệp chế biến gỗ năm 2022.

Nguồn: papnews.com

Biên dịch và tổng hợp VPPA

Kinh tế Mỹ ra sao nếu Fed không giảm lãi suất năm nay

Vài tháng qua, quan chức Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) luôn khẳng định cần thêm bằng chứng lạm phát giảm dần về 2% để hạ lãi suất. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 của nước này tiếp tục tăng, khiến Chủ tịch Fed Jerome Powell đầu tuần này khẳng định sẽ không hành động sớm.

“Dữ liệu gần đây không khiến chúng tôi tự tin hơn. Thay vào đó, nó cho thấy phải mất thêm một thời gian nữa, lạm phát mới về mục tiêu 2%”, Powell cho biết trong một sự kiện hôm 16/4.

Chứng khoán Mỹ đã giảm điểm sau phát biểu này. Lợi suất trái phiếu chính phủ cũng lập đỉnh mới. Các thị trường, doanh nghiệp và Nhà Trắng đều quan tâm đến thời điểm và số lần hạ lãi suất năm nay. Tuy nhiên, triển vọng giảm lãi sớm hiện không mấy sáng sủa. Giới chuyên gia cho rằng trong dài hạn, kinh tế Mỹ khó có thể chống chịu tốt với mức lãi cao như hiện tại.

Thị trường lao dốc

Khi quan chức Fed ám chỉ có thể điều chỉnh 3 lần trong năm nay, Wall Street đã lập đỉnh mới. Đầu năm nay, nhà đầu tư đặt cược lần điều chỉnh đầu tiên có thể đến ngay trong tháng 3.

Bởi, mức lãi thấp sẽ giúp chi phí vay của doanh nghiệp giảm, từ đó gia tăng lợi nhuận. Tức là, nhà đầu tư có nhiều tiền hơn để rót vào thị trường.

Lạm phát Mỹ tăng tốc trở lại vài tháng qua, giới phân tích cũng lùi dự báo về thời điểm nâng lãi sang tháng 6. Tuy nhiên, họ vẫn lạc quan khi biên bản cuộc họp tháng 3 cho thấy quan chức Fed giữ kế hoạch giảm lãi 3 lần. Chứng khoán vì thế liên tiếp lập đỉnh mới.

Tuy nhiên, sau khi lạm phát tháng 3 được công bố mạnh hơn dự báo, cả ba chỉ số chủ chốt của Wall Street quay đầu giảm. Tuần qua, DJIA, S&P 500 và Nasdaq Composite mất 2%.

Itay Goldstein – Giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Wharton thuộc Đại học Pennsylvania, nhận định chứng khoán bị bán tháo, song thị trường vẫn kỳ vọng Fed giảm lãi suất năm nay.

“Rủi ro là nếu Fed không giảm lãi, thị trường sẽ đi xuống”, ông cảnh báo trên CNN.

Việc này sẽ tác động lan truyền đến toàn bộ nền kinh tế. Giá cổ phiếu hạ khiến các doanh nghiệp cắt giảm chi phí hoặc trì hoãn đầu tư. Ví dụ, Tesla gần đây thông báo giảm 10% nhân sự, trong bối cảnh cổ phiếu hãng xe điện Mỹ lao dốc.

Thị trường đi xuống cũng có thể khiến các hộ gia đình “cảm thấy bớt giàu”, Goldstein nói. Điều này khiến họ giảm chi tiêu.

Xác suất kinh tế suy thoái tăng

Sau 11 lần tăng liên tiếp, Fed quyết định giữ nguyên lãi suất từ giữa năm ngoái. Nhưng kể từ đó, cơ quan này luôn lặp lại thông điệp sẽ giữ lãi cao trong thời gian dài hơn.

Goldstein cảnh báo Fed duy trì chính sách tiền tệ như hiện nay, các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ chịu nhiều tổn thương.

Đến nay, kịch bản suy thoái của Mỹ vẫn còn cách khá xa, đặc biệt sau báo cáo doanh số bán lẻ tháng 3 tăng vượt dự báo hai tháng liên tiếp. Điều này cho thấy người tiêu dùng chi tiêu bất chấp lạm phát và lãi suất cao nhất hai thập kỷ.

Dù vậy, lãi cao khiến người dân có xu hướng tiết kiệm hơn là chi tiêu. Việc này sẽ giảm tốc nền kinh tế. Rủi ro suy thoái gia tăng nếu Fed không điều chỉnh năm nay, Goldstein nói.

Về dài hạn, chi phí đi vay tăng nhanh, tác động tiêu cực đến tiêu dùng, đầu tư và thị trường nhà ở, theo Brian Rose – nhà kinh tế học tại UBS Global Wealth Management.

Tuy nhiên, không phải ai cũng cho rằng nền kinh tế sẽ tệ thêm nếu Fed không có thêm động thái điều chỉnh năm nay. “Chúng tôi cho rằng Mỹ hiện đủ mạnh, không cần đến việc giảm lãi để tránh suy thoái”, David Mericle – nhà kinh tế học tại Goldman Sachs kết luận.

Hà Thu (theo CNN, Reuters)

Tỷ giá sẽ dần hạ nhiệt từ cuối quý 2/2024, lãi suất duy trì ở mức thấp

Lợi nhuận ngân hàng sẽ khả quan hơn, tăng từ 10-15%

Thông tin tại Hội thảo “Thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024” diễn ra ngày 16/4, nhóm nghiên cứu từ Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (NFSC) đã dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2024 có thể đạt 6-6,5% (kịch bản cơ sở) với các động lực tăng trưởng phục hồi tốt hơn năm 2023, lạm phát tăng khoảng 3,4-3,8%, trong mục tiêu là 4-4,5%.

Theo ông Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách NFSC, kinh tế năm 2024 có nhiều triển vọng hơn 2023 nhờ việc đẩy mạnh đầu tư công và các chính sách cụ thể thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh tế tiêu dùng, đầu tư…

Cùng với khu vực kinh tế thực, theo nhóm chuyên gia, khu vực tài chính của Việt Nam năm 2024 được dự báo sẽ tích cực hơn. Chính sách tiền tệ được dự báo theo hướng chủ động, linh hoạt, lãi suất duy trì ở mức thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Tỷ giá mặc dù còn chịu áp lực lớn trước khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định giảm lãi suất nhưng sẽ hạ nhiệt dần từ cuối quý 2/2024, với mức tăng khoảng 2,5-3% trong năm 2024.

Ngoài ra, cơ cấu cung ứng vốn của nền kinh tế trong năm 2024 và các năm tiếp theo được kỳ vọng chuyển dịch theo hướng tích cực hơn khi giảm dần tỷ trọng của kênh tín dụng, tăng tỷ trọng qua kênh thị trường vốn và đầu tư tư nhân.

Thanh khoản thị trường được kỳ vọng có sự cải thiện tích cực. Tăng trưởng tín dụng dự báo ở mức 14−15% nhờ kinh tế tăng trưởng cao hơn, lãi suất thấp và thị trường bất động sản, tiêu dùng phục hồi tốt hơn.

Tăng trưởng lợi nhuận của các định chế tài chính năm 2024 được dự báo sẽ ở mức cao hơn năm 2023, do kinh tế phục hồi và tăng trưởng cao hơn; sản xuất và tiêu dùng đang hồi phục cũng như chủ trương về thúc đẩy tín dụng tiêu dùng…

Trong đó, lợi nhuận ngân hàng dự báo sẽ khả quan hơn, tăng từ 10-15% so với năm trước, nhưng có sự phân hóa giữa các ngân hàng tùy thuộc vào năng lực tài chính, kế hoạch tăng trưởng tín dụng được phê duyệt, chất lượng tài sản, phát triển dịch vụ…

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho biết, khung pháp lý cho thị trường tài chính tiếp tục được hoàn thiện.

Trong đó, thay đổi đáng quan tâm nhất là Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2024 và các luật quan trọng khác như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản… có hiệu lực từ đầu năm 2025, với nhiều điểm mới quan trọng.

Bên cạnh đó, pháp lý cho thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng thúc đẩy thị trường hoạt động an toàn, bền vững, hướng tới mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2025.

Nợ xấu sẽ đạt đỉnh trong quý 2/2024

Các chuyên gia cũng chỉ rõ, thị trường tài chính trong năm 2024 vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm như, nợ xấu còn gia tăng trong nửa đầu năm nhưng sẽ giảm dần cùng với đà phục hồi của nền kinh tế. Chuyên gia Cấn Văn Lực cho biết nhóm nghiên cứu dự báo nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ đạt đỉnh trong quý 2/2024.

Tỷ giá sẽ dần hạ nhiệt từ cuối quý 2/2024, lãi suất duy trì ở mức thấp
Nguồn: Báo cáo Thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024.

Ngoài ra, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu nhưng tín dụng đang phục hồi và cả năm có thể tăng 14-15%. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản phục hồi chậm và cần thời gian để chuyển biến rõ nét hơn. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số và xu hướng tăng trưởng xanh, tài chính xanh đòi hỏi nguồn lực đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực chất lượng cao…

Về vấn đề này, ông Vũ Nhữ Thăng nhấn mạnh đến rủi ro liên thông giữa thị trường bất động sản với thị trường tài chính còn tiềm ẩn, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, cùng những rủi ro liên quan đến công nghệ và an ninh mạng gia tăng, đòi hỏi kiểm soát hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Vì thế, để ổn định và phát triển thị trường tài chính, nhóm chuyên gia đề nghị phải tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp để giảm bớt áp lực nguồn vốn trung – dài hạn cho hệ thống ngân hàng, hiện thực hóa việc nâng hạng thị trường chứng khoán theo đúng kế hoạch đề ra; đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý – giám sát thị trường tài chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện tại cũng như tận dụng xu hướng mới, cơ hội mới trong tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng, tài chính xanh và chuyển đổi số, trong đó có công nghệ tài chính (fintech)…

Ngoài ra, các chuyên gia khuyến nghị đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụn yếu kém; đẩy nhanh tháo gỡ pháp lý cho thị trường đất đai, bất động sản nhằm giải phóng nguồn lực, hỗ trợ xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa hệ thống…

Nguồn: Hải quan online

Doanh nghiệp vẫn mòn mỏi chờ hoàn thuế

Doanh nghiệp vẫn chờ

“Doanh nghiệp vẫn mòn mỏi chờ hoàn thuế”, ông Phạm Minh Khoa, Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại – Xuất nhập khẩu Toàn cầu An Phát (Công ty Toàn cầu An Phát) chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư.

Tâm trạng của ông rất bức xúc, vì phải nhắc lại vấn đề này, trong khi mảng xuất khẩu tinh bột sắn của Công ty đã phải ngừng hoạt động.

Lâu nay, Công ty hoạt động tương tự các doanh nghiệp khác trong Hiệp hội Các doanh nghiệp xuất khẩu tinh bột sắn. Trong 4 năm qua, Công ty Toàn cầu An Phát đã thực hiện 32 lần xuất khẩu tinh bột sắn, đóng thuế đầy đủ, có đủ hóa đơn, chứng từ mua bán qua ngân hàng, hàng hóa xuất ra có hải quan chứng nhận. Nhưng đến giờ, vào thời điểm tháng 4/2024, Công ty vẫn chưa được hoàn thuế giá trị gia tăng.

“Căn cứ theo quy định của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng, Công ty đã đủ điều kiện giống 31 kỳ đã hoàn thuế trước đó. Hơn thế, các điều kiện này giống y về bản chất và cùng chung khách hàng, nhiều công ty khác đã được hoàn thuế”, ông Khoa cám cảnh.

Doanh nghiệp đã kiến nghị tình hình này lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội. Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã đánh giá doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện để hoàn thuế giá trị gia tăng.

Tại phiên họp sáng 12/7/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội phát biểu rằng, việc hoàn thuế là có cơ sở. Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã thành lập đoàn giám sát. Các cục thuế Quảng Ninh và Lạng Sơn cũng đã đưa ra những cơ sở xác định doanh nghiệp tuân thủ đúng các quy định.

Phần việc còn lại, theo quy định trách nhiệm chức năng, nhiệm vụ, Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế chỉ đạo cấp dưới là cục thuế ra quyết định hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Song, đến thời điểm này, doanh nghiệp vẫn chưa nhận được quyết định hoàn thuế của Cục Thuế Hà Nội.

“Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3/2024, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục yêu cầu Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Vậy, liệu doanh nghiệp có được hoàn thuế hay không?”, ông Khoa đặt câu hỏi.

Ngành thuế nói gì?

Cho đến giờ, ông Khoa vẫn tiếp tục bày tỏ sự thất vọng với câu trả lời của lãnh đạo Tổng cục Thuế về yêu cầu hoàn thuế của Công ty Toàn cầu An Phát.

Trước đó, tại hội nghị đối thoại về chính sách, thủ tục hành chính thuế và hải quan, do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức, với sự tham dự của đại diện hơn 600 doanh nghiệp và hiệp hội, nóng nhất là vấn đề hóa đơn, hoàn thuế giá trị gia tăng.

“Giờ cơ quan thuế lại bảo doanh nghiệp muốn giải quyết thì đi kiện cơ quan thuế ra tòa. Thực sự, chúng tôi quá nản”.

Tại hội nghị này, ông Đặng Ngọc Minh, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, vấn đề của Công ty Toàn cầu An Phát là câu chuyện dài, liên quan đến việc hoàn thuế của một trong những doanh nghiệp về tinh bột sắn, thuộc lĩnh vực rủi ro.

Theo ông Minh, Bộ Tài chính đã có văn bản gửi Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội lý giải, việc chưa hoàn thuế giá trị gia tăng với Công ty Toàn cầu An Phát dựa trên căn cứ vào việc đánh giá rủi ro sau khi trao đổi thông tin với cơ quan quản lý của Trung Quốc.

“Quan điểm của Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế là Công ty nên tiếp tục vận dụng quyền và nghĩa vụ của mình, căn cứ vào quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Chúng tôi sẵn sàng giải quyết khi có phán quyết. Việc đánh giá rủi ro hồ sơ cụ thể thuộc thẩm quyền của Cục Thuế Hà Nội. Cục Thuế Hà Nội đã có văn bản trả lời, chúng tôi đã báo cáo Ban Dân nguyện để giải trình”, ông Đặng Ngọc Minh trả lời câu hỏi của Công ty Toàn cầu An Phát.

Ông Khoa nhắc lại, hồ sơ xuất khẩu tinh bột sắn của Công ty Toàn cầu An Phát không phải là trường hợp cá biệt. Phần lớn doanh nghiệp sắn đang thực hiện các hoạt động xuất khẩu như vậy và vẫn được hoàn thuế bình thường, vẫn tiếp tục các đơn hàng xuất khẩu. Chỉ có điểm khác là, Toàn cầu An Phát không được hoàn thuế, nên đã phải dừng mảng hoạt động này và đang mệt mỏi đi kêu cứu khắp nơi.

“Giờ cơ quan thuế lại bảo doanh nghiệp muốn giải quyết thì đi kiện cơ quan thuế ra tòa. Thực sự, chúng tôi quá nản”, ông Khoa nói.

Thực tế, đã có doanh nghiệp thực hiện quyền này. Ông Khoa dẫn chứng trường hợp của Công ty cổ phần Fococev Việt Nam, một doanh nghiệp hội viên Hiệp hội Sắn Việt Nam. Fococev Việt Nam đã kiện Cục trưởng Cục thuế TP.HCM ra Tòa án Nhân dân TP.HCM, khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế về việc thu hồi tiền hoàn thuế và tiền chậm nộp do xuất khẩu tinh bột sắn của công ty này. Tòa án đã tuyên doanh nghiệp thắng kiện tại Bản án số 1188/2023/HC-ST ngày 17/7/2023. Các cơ quan tố tụng cũng đã xác định rõ quyết định truy hoàn thuế của Cục trưởng Cục Thuế TP.HCM là sai. Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Thuế TP.HCM đang kháng cáo quyết định của Tòa án.

“Các doanh nghiệp trong Hiệp hội Sắn Việt Nam đang chờ kết quả phiên xử phúc thẩm tới đây. Tuy nhiên, tâm lý rất nặng nề, không biết sẽ tiếp tục theo đuổi vụ việc này thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình”, ông Khoa thẳng thắn.

Nguồn: Báo đầu tư