Nội dung họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 4

Chiều 4/5, ngay sau phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2019 đã diễn ra buổi họp báo Chính phủ dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Người phát ngôn của Chính phủ Mai Tiến Dũng để cung cấp cho báo chí nhiều thông tin về những vấn đề dư luận xã hội quan tâm.

Thông tin về phiên họp Chính phủ diễn ra trước đó, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết: Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chính phủ đã tập trung thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2019; công tác chuẩn bị cho kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV; và một số vấn đề khác…

Tại phiên họp, các thành viên Chính phủ đã thảo luận nhiều báo cáo về tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết 01 và 02 và thống nhất đánh giá kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế trong nước ổn định, tiếp tục đà phát triển, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh không ngừng được cải thiện. Cụ thể:

– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2019 tăng 0,31% so với tháng trước, CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,71% so với cùng kỳ, đây là mức tăng bình quân 4 tháng đầu năm thấp nhất trong 3 năm gần đây.

– Thị trường tiền tệ, tín dụng và tỷ giá tương đối ổn định, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 17/4/2019 tăng 3,23% so với cuối năm 2018; mặt bằng lãi suất duy trì ổn định.

– Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung ổn định; đặc biệt ngành lâm nghiệp, thủy sản duy trì mức tăng khá (gỗ khai thác tăng 4,3%; diện tích rừng bị cháy giảm 6,27%; sản lượng thủy sản tăng 5,1%).

– Sản xuất công nghiệp đạt kết quả tăng khá. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,2%, thấp hơn mức tăng 10,7% của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng 7,4% và 6,6% cùng kỳ năm 2016 và năm 2017. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,9% (cùng kỳ tăng 12,9%).

– Hoạt động thương mại dịch vụ tiếp tục xu hướng tăng khá, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu các loại vật tư quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu được bảo đảm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt tốc độ tăng cao nhất kể từ năm 2015, tăng 11,9%.

– Số doanh nghiệp thành lập mới và vốn đăng ký tiếp tục tăng, với trên 43.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký trên 540 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% về số doanh nghiệp và tăng 31,7% vốn đăng ký. Ngoài ra, còn có trên 17.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 52,6% so với cùng kỳ.

– Vốn FDI đạt 5,7 tỷ USD, tăng 7,5%. Tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt gần 7,5 tỷ USD, tăng 28,6%. Góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 7,14 tỷ USD, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ. Đây là những chỉ dấu cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh của chúng ta tiếp tục được cải thiện tốt hơn.

– Xuất khẩu tiếp tục tăng khá, đạt 78,76 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ; đặc biệt khu vực kinh tế trong nước đạt 23,33 tỷ USD, tăng 10,5%. Nhập khẩu đạt 78,05 tỷ USD, tăng 10,4%. Xuất siêu 711 triệu USD.

– Thu ngân sách nhà nước duy trì tiến độ khả quan, chi ngân sách đáp ứng kịp thời các yêu cầu đầu tư phát triển.

Bên cạnh những kết quả nói trên, tình hình kinh tế – xã hội còn không ít khó khăn, thách thức và một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới. Trong nông nghiệp, tình hình dịch tả lợn châu Phi bước đầu hạ nhiệt, tuy vậy giá thịt lợn vẫn giảm so với tháng trước; sản lượng cá tra xuất khẩu vào thị trường Mỹ và Trung Quốc giảm; nguy cơ hạn hán, thiếu nước tại các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước, một số sản phẩm công nghiệp chủ đạo tăng thấp hoặc giảm như linh kiện điện thoại giảm 24,6%, dầu thô khai thác giảm 8,3%…; dẫn tới sản xuất công nghiệp của nhiều địa phương giảm.

Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là gần 17.000 doanh nghiệp, tăng 19,7%; 5.300 doanh nghiệp giải thể, tăng 12,9%.

Tình hình vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách Nhà nước giảm 30,6% (Bộ Giao thông Vận tải giảm 57,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giảm 56,3%; Bộ Tài nguyên và Môi trường giảm 29,1%…)

Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm do xuất khẩu của khối FDI tăng chậm so với cùng kỳ. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm như điện thoại và linh kiện giảm 0,2%; thủy sản giảm 1,3%; cà phê giảm 22,6%; hạt điều giảm 16,9%; gạo giảm 21,7%; hạt tiêu giảm 12%…

Xảy ra nhiều sự cố giao thông (xảy ra không ít vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, đi ngược chiều trên cao tốc, sử dụng rượu bia, ma túy đá khi lái xe…).

Đồng thời, một số vấn đề xã hội, an ninh trật tự mà chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong thời gian tới như vấn đề y tế (bệnh sốt xuất huyết gia tăng, vấn đề quá tải bệnh viện); nợ đóng bảo hiểm xã hội; an ninh trật tự (buôn bán ma túy khối lượng lớn tăng mạnh trong thời gian qua trên khắp các tuyến biên giới, đã bắt nhiều vụ lớn nhất từ trước đến nay)…

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng thông tin về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2019 với báo chí. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Về nhiệm vụ thời gian tới, các thành viên Chính phủ cho rằng, để có thể đạt và vượt các mục tiêu đã đề ra, thì nhiệm vụ từ nay đến cuối năm và trong quý II là rất nặng nề, đòi hỏi, các bộ, ngành, địa phương, nhất là người đứng đầu, phải có quyết tâm cao, tập trung thực hiện các kế hoạch; theo dõi sát tình hình quốc tế, trong nước, phân tích kỹ xu hướng để đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược phù hợp với những kịch bản, diễn biến mới.

 

Chủ đề của năm 2019 đặt ra là: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”. Chính phủ, từng thành viên Chính phủ, các bộ ngành, địa phương khẩn trương chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01, 02, Nghị quyết 35 và chương trình hành động của bộ ngành, địa phương, tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh một cách quyết liệt hơn, hiệu quả hơn; thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ cải cách kiểm tra chuyên ngành, tiếp tục đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và cộng đồng doanh nghiệp.

 

Trong đó, một số giải pháp là: Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phòng chống dịch bệnh chăn nuôi, nhất là dịch tả lợn châu Phi; có phương án căn cơ để giải quyết việc xuất khẩu gạo, nông sản, thủy sản, chú trọng mặt hàng cá tra; theo dõi sát sao tình hình sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo; khuyến khích đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực sản xuất, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu; đề xuất giải pháp tạo bước phát triển mới, mang tính đột phá đối với ngành du lịch cả về lượng, chất…

 

Cũng tại phiên họp, Tổ công tác của Thủ tướng đã báo cáo kết quả kiểm tra việc cắt giảm thủ tục hành chính thực chất và rà soát các vướng mắc cụ thể đối với sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Trong tháng 4 vừa qua, Tổ đã làm việc với 7 Bộ, VCCI và đại diện 5 Hiệp hội, ghi nhận 45 kiến nghị về cơ chế, chính sách, rào cản hành chính.

 

Trong đó, có 15 kiến nghị chưa đủ cơ sở để giải quyết, các Bộ và VPCP đã giải thích thỏa đáng. Có 2 kiến nghị liên quan đến 2 dự án Luật đang trình Quốc hội (Luật sửa đổi Luật Phòng chống tác hại của rượu bia và Bộ luật Lao động sửa đổi). Có 16 vướng mắc do quy định tại các văn bản của các Bộ, đã có 8 vấn đề đã được các bộ xử lý, còn lại 8 vấn đề các bộ đều đã nêu phương án xử lý. Tổ công tác đề nghị Chính phủ yêu cầu các Bộ hoàn thành việc xử lý các vướng mắc và thực hiện các cam kết ngay trong tháng 5/2019.

 

Về 12 kiến nghị thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng, có 6 vấn đề đã được xử lý tại các dự thảo Nghị định trình Chính phủ ban hành. Còn lại 6 vấn đề vướng mắc trong thực tiễn. Các Bộ, cơ quan thống nhất với VPCP kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hướng xử lý (như đề xuất bãi bỏ quy định các cơ sở lưu trú du lịch đủ điều kiện xếp hạng vẫn phải xin giấy phép kinh doanh rượu tại chỗbãi bỏ quy định doanh nghiệp kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm (dạng bao gói sẵn) phải có giấy xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm và giấy xác nhận đủ sức khỏe; sửa đổi quy định cấm quảng cáo và kinh doanh nước ngọt có ga trong trường học bao gồm cả cao đẳng, đại học theo hướng quy định không quảng cáo và kinh doanh sản phẩm này tại trường tiểu học…).

 

Các Bộ ngành đã có các trao đổi, trả lời báo chí xoay quanh các vấn đề xã hội quan tâm. Sau đây là một số ý kiến liên quan được đưa ra trong buổi họp báo:

 

Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho hay: Bộ Công Thương đã căn cứ vào Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân; Quyết định số 34/2017/QĐ-TTg ngày 25/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân giai đoạn 2016-2020; Xét đề nghị của EVN, điều kiện thực tiễn, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan báo cáo trình Chính phủ về các phương án điều chỉnh tăng giá điện.

 

Sau khi Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 648/QĐ-BCT ngày 20 tháng 3 năm 2019 tăng giá điện với mức 8,36% từ ngày 20/3/2019. Khi thực hiện Quyết định này, từ cuối tháng 4/2019 đến nay, các phương tiện thông tin đại chúng đã có nhiều ý kiến phản ánh việc các hộ dùng điện, người tiêu dùng phải trả tiền điện tháng 4 tăng đột biến so với tháng 3/2019. Các nguyên nhân của việc này đã được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Bộ Công Thương giải thích.

 

Trước hết, chúng tôi chia sẻ với suy nghĩ, bức xúc của người tiêu dùng khi nhận hoá đơn tiền điện tháng 4 cao hơn so với tháng 3 trong bối cảnh khó khăn hiện nay. Bộ Công Thương với chức năng quản lý Nhà nước đã thực hiện các biện pháp như:

 

– Yêu cầu EVN phải tiếp nhận xử lý giải đáp đầy đủ các khiếu nại, thắc mắc của khách hàng liên quan đến hoá đơn tiền điện tháng 4, trong trường hợp phát hiện sai phạm do lỗi của ngành điện thì phải xin lỗi, khắc phục và xử lý nghiêm các sai phạm.

 

– EVN tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội về việc điều chỉnh giá điện để khách hàng, người dân hiểu rõ về cách thức tính giá điện mới, nguyên nhân tăng hóa đơn tiền điện, mục đích việc tính giá điện theo bậc thang đối với các hộ gia đình.

 

– EVN tiếp tục hoàn thiện cải tiến chất lượng, làm tốt công tác dịch vụ phục vụ khách hàng tốt hơn, đặc biệt trong những tháng nắng nóng…

 

Ngày 2/5/2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ra Quyết định số 1114/QĐ-BCT lập 3 đoàn công tác để tiến hành kiểm tra việc thực hiện điều chỉnh giá điện theo Quyết định 846/QĐ-BCT của Bộ Công Thương và các quy định liên quan đến giá điện.

 

Hôm qua (3/5/2019), Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo lập Đoàn do Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương kiểm tra việc tăng giá điện, sớm có kết luận.

 

Trước khi có Quyết định 846/QFF-BCT về việc tăng giá điện ngày 20/3/2019, Bộ Công Thương đã cùng các cơ quan liên quan, trong đó có Bộ Tài chính, Tổng Cục thống kê, có đánh giá tác động của việc tăng giá điện (ảnh hưởng thế nào đến CPI, GDP, đến các mặt hàng thiết yếu khác như sắt, thép, xi măng…), sau đó, trình Chính phủ xem xét phê duyệt. Sau khi ban hành Quyết định 846, lãnh đạo Chính phủ, cụ thể là Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ – Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá cũng đã yêu cầu Bộ Công Thương đánh giá tác động gián tiếp của việc tăng giá điện, báo cáo lại các cấp có thẩm quyền.

 

Liên quan đến đề xuất sửa giá điện bậc thang, quan điểm của chúng tôi là bất cứ quy định nào đưa ra mà chưa phù hợp, không hợp lý thì dù mới đưa ra, nếu cần thiết sửa thì vẫn phải sửa. Việc sửa đổi phải được thực hiện theo nguyên tắc sẽ tốt hơn, phù hợp hơn, trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, người dân, đảm bảo tuân thủ chiến lược sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

 

Về dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục bí mật tài liệu Nhà nước của Ngành Công Thương, Bộ Công Thương không đề xuất đưa vào Danh mục này thông tin về giá 2 mặt hàng điện và xăng dầu. Bộ Công Thương chỉ đề xuất đưa vào Danh mục: Báo cáo điều hành kinh doanh và phương án chỉ đạo, điều chỉnh giá điện, các mặt hàng xăng dầu chưa công bố . Hiện nay, giá xăng đã theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhưng đây là mặt hàng thiết yếu, là đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ tiêu dùng của người dân. Biến động và việc điều chỉnh giá xăng dầu có tác động tới công tác kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ, ảnh hướng đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt dễ tác động đến lạm phát kỳ vọng trong nhân dân. Tương tự đối với mặt hàng điện, giá điện là một mặt hàng do Nhà nước thống nhất quản lý. Giá điện có tác động và ảnh hưởng lớn đến việc điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước và sinh hoạt của nhân dân. Giá điện cũng có tác động không nhỏ tới chỉ tiêu lạm phát do Chính phủ điều hành theo các Nghị quyết của Quốc hội hàng năm. Một điểm quan trọng nữa là do ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân nên giá điện cũng ảnh hướng tới lạm phát kỳ vọng trong nhân dân. Thực tế cho thấy lạm phát kỳ vọng trong nhân dân có ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều hành và chỉ đạo của Chính phủ.
Căn cứ Khoản 2 Điều 27 Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2018 quy định việc lập, thẩm định, ban hành Danh mục Bí mật Nhà nước, thời hạn bảo vệ bí mật Nhà nước, gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật Nhà nước, có hiệu lực từ 01/01/2019 và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ giao trách nhiệm cho các Bộ lập danh mục bí mật nhà nước của ngành, lĩnh vực quản lý, Bộ Công Thương đã dự thảo Dự thảo Qbí mật nhà nước trong ngành Công Thương.
Nhằm hạn chế tác động tiêu cực do thông tin của các phương án giá điện khi chưa được quyết định đến lạm phát kỳ vọng trong nhân dân, trên cơ sở kế thừa quy định tại Quyết định số 106/2008/QĐ-TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục bí mật Nhà nước độ tuyệt mật, tối mật trong ngành Công Thương và Quyết định số 1534/2008/QĐ-BCA (A11) ngày 18 tháng 9 năm 2008 của Bộ Công an về Danh mục bí mật Nhà nước độ Mật của ngành Công Thương, Bộ Công Thương đã dự kiến đưa nội dung báo cáo điều hành kinh doanh và phương án chỉ đạo, điều chỉnh giá điện chưa công bố vào Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục bí mật nhà nước trong ngành Công Thương.
Các nội dung nêu trên trước khi công bố là Mật. Tuy nhiên sau khi công bố thì không còn là thông tin Mật nữa, sẽ được công bố, thông báo công khai.
Trên cơ sở ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức và người dân, Bộ Công Thương sẽ tổng hợp ý kiến và nghiên cứu để hoàn thiện Dự thảo.
Hiện nay mặt hàng xăng dầu được điều hành theo kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước, có nghĩa là ngân sách không bỏ tiền ra để điều hành xăng dầu. Tuy nhiên, trong Nghị định 83 của Chính phủ đã đưa ra Quỹ BOG. Theo đó mỗi lít xăng, dầu nhập khẩu vào Việt Nam sẽ trích ra 300 đồng đưa vào Quỹ. Quỹ này được dùng để chi sử dụng trong các dịp lễ, Tết, các khoảng thời gian nhạy cảm… mà giá xăng, dầu thế giới tăng cao sẽ lấy ra bù vào.
Trong thời gian vừa qua, giá xăng dầu trên thế giới tăng rất cao, 4 tháng đầu năm 2019 giá dầu thô biến động tăng cao, ngày 23/4 vừa qua đã đạt mức giá cao nhất trong 6 tháng gần đây, tăng 28,85 – 32,81% so với đầu năm 2019. Giá thành phẩm xăng dầu tháng 4 so với tháng 3/2019 cũng tăng 8,5% và liên Bộ Công Thương – Tài chính đã phải sử dụng đến Quỹ BOG. Có thể thấy, vừa rồi giá xăng dầu vẫn tăngnhiều nhưng nếu không sử dụng Quỹ sẽ còn tăng nhiều hơn nữa.
Việc sử dụng Quỹ BOG giúp cho việc điều hành kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số GDP cả năm đồng thời đảm bảo hài hoà lợi ích của 3 bên: Người dân, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và Nhà nước. Chính vì thế, thời gian vừa qua khi giá xăng dầu thế giới biến động mạnh ta đã phải chi sử dụng Quỹ BOG rất nhiều.
Từ 01/01/2018 chúng ta đã đưa xăng E5RON92 vào thay thế cho xăng RON92. Năm 2018, xăng E5RON92 đã tiêu thụ 3,118 triệu m3 tương đương khoảng 42% lượng xăng tiêu thụ trên toàn quốc. Tuy nhiên, 3 tháng đầu năm 2019, theo số liệu báo cáo, lượng xăng E5RON92 tiêu thụ khoảng 740.000 m3 tương đương khoảng 38% tổng lượng xăng, như vậy là có giảm.
Về vấn đề xăng E5RON92, hiện nay mức thuế bảo vệ môi trường với xăng E5RON92 được tính bằng 95,1% mức thuế so với xăng khoáng RON92. Tôi đồng tình với ý kiến cho rằng mức này chưa hợp lý và cần cân nhắc đưa ra mức thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng E5 RON 92 dựa theo mức độ khí phát thải (75-80% mức thuế đối với xăng khoán) thay vì cách tính cơ học băng 95,1% như hiện nay (với lý luận xăng E5 RON 92 được pha trộn bởi 95% xăng RON 92 và 5% Ethanol). Hiện nay so sánh mức thuế môi trường đối với xăng khoáng là 4.000 đồng/lít, trong khi đối với xăng E5 RON92 vẫn là 3.800 đồng/lít. Như vậy không khuyến khích người tiêu dùng lựa chọn xăng E5 RON 92 vì hiện nay họ vẫn còn nhiều băn khoăn về chất lượng xăng E5, thường vẫn nói một cách dân dã khi chạy bằng xăng E5 “chưa bốc” bằng xăng khoáng.
Chúng tôi đánh giá rất cao sự phối hợp của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc tuyên truyền người dân sử dụng xăng E5RON92. Trên thế giới còn đã sử dụng đến xăng E10, E20 mà ta xăng E5 còn chưa đạt 40%. Sáng nay, họp Ban Chỉ đạo Điều hành giá chúng tôi cũng đưa ra việc này và đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa mức thuế môi trường đối với xăng E5RON92 và có những giải pháp, chính sách phù hợp khác để tạo sự cách biệt hợp lý về giá giữa 2 loại xăng nhằm khuyến khích người tiêu dùng sử dụng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức thực hiện quy hoạch nguồn nguyên liệu sắn để sản xuất ethanol E100 phục vụ phối trộn xăng E5 RON92 nói riêng, nhiên liệu sinh học nói chung. Bộ Giao thông vận tải phối hợp với các nhà sản xuất, kinh doanh xe sớm đưa ra khuyến cáo, thông báo rộng rãi các loại xe, phương tiện nào sử dụng được xăng E5 RON 92 để chủ xe, chủ phương tiện và người dân an tâm sử dụng xăng E5 RON 92.

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng: Liên quan đến vấn đề giá điện, đây là vấn đề mà người dân rất quan tâm, trong phiên họp Chính phủ hôm nay cũng đề cập đến vấn đề này. Chúng ta đều biết, nền kinh tế của chúng ta hiện nay là nền kinh tế thị trường. Chúng ta không thể bao cấp và bù lỗ từ ngân sách mãi được. Chúng ta điều chỉnh là phải tính toán đến các yếu tố và cả chỉ số CPI. Vừa qua, đúng là dư luận đánh giá về bậc thang 6 nấc tính giá tiền điện. Quan điểm chung là chúng ta phải tiến tới một thị trường với sự quản lý nhà nước. Như vậy, việc điều chỉnh giá điện là cần thiết, nhưng phải có căn cứ, có khoa học, có minh bạch đánh giá tác động đầu vào hợp lý để công khai. Còn vấn đề công khai như thế nào về giá, chúng ta thấy văn bản ban hành ra là không mật, nhưng trong quá trình soạn thảo văn bản đó thì được quản lý theo như văn bản mật. Ví dụ, một văn bản thông thường phát hành nhưng trong quá trình soạn thảo xin ý kiến, trao đổi giữa các cơ quan… để đảm bảo tuyệt đối an toàn trong quá trình xây dựng cơ chế chính sách thì phải quản lý chặt chẽ như chế độ mật. Còn đánh giá tác động đến đối tượng thì thực hiện theo quy trình đánh giá tác động. Vì vậy, không phải văn bản ban hành không mật thì trong quá trình soạn thảo cũng không mật.

Thủ tướng đã giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan để báo cáo Chính phủ trong tháng 6/2019toàn bộ kết quả liên quan đến phương án tính toán, xác định như thế nào để đảm bảo sự minh bạch, khách quan.

Chúng ta cũng phải thấy rằng, chúng ta tăng trưởng GDP 6,5-7%, trong khi nhu cầu sử dụng điện luôn luôn tăng trưởng 2 con số. Đây là vấn đề quan tâm đặc biệt của Thủ tướng liên quan đến điện năng cho sản xuất, phát triển kinh tế, an sinh xã hội…

 

Liên quan đến KCN Thái Nguyên, Ban Quản lý KCN Thái Nguyên thì đúng là ngày 4/3, tôi có nhận được văn bản số 150 của Ban Quản lý KCN Thái Nguyên kiến nghị việc gây khó khăn của Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) cho các doanh nghiệp của KCN. Chương trình lẽ ra là ngày 27/3 tôi là Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng sẽ dẫn đoàn công tác lên đó để kiểm tra thực địa một số vấn đề liên quan đến kiến nghị của Ban Quản lý KCN. Tiếc rằng trong thời gian đó, HĐND tỉnh Thái Nguyên đang họp, chưa bố trí được nhưng tinh thần là chúng tôi sẽ lên và chúng tôi sẽ mời cơ quan báo chí lên thực địa xem vấn đề thủ tục hành chính ra sao, đánh giá tác động thế nào, khó khăn thế nào, doanh nghiệp phản ánh thế nào. Chúng ta sẽ tìm hiểu thực tế, giải quyết những khúc mắc trong thực thi để thấy rằng những cải cách của Thủ tướng là thực chất.

Theo Báo Chính phủ