Nine Dragons bổ sung công suất P&P 4,12 triệu tấn/năm vào năm 2025, chuyển lỗ thành lãi

Theo báo cáo tài chính mới nhất của công ty công bố vào thứ Ba ngày 27 tháng 2, ngoài dây chuyền wood fiber (vật liệu sợi gỗ) công suất 210.000 tấn/năm sẽ đi vào hoạt động vào cuối tháng 3 tại Malaysia, các dây chuyền sản xuất giấy và bột giấy mới khác đều đã được lên kế hoạch ở Trung Quốc.

Tại nhà máy Beihai ở khu tự trị Quảng Tây, dây chuyền wood fiber công suất 210.000 tấn/năm dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất vào tháng 3.

Vào quý 3 năm 2024, một dây chuyền bột cơ học 600.000 tấn/năm, một dây chuyền bột giấy hóa học 1,1 triệu tấn/năm và một máy sản xuất bìa ivory tráng phủ 1,2 triệu tấn/năm sẽ được khởi động tại nhà máy Bắc Hải. Việc vận hành hai dây chuyền đầu tiên trước đó đã được lên kế hoạch vào quý hai năm nay.

Dự kiến khởi động máy sản xuất giấy kraft làm túi 200.000 tấn/năm vào cuối năm 2025 tại cùng địa điểm.

Nine Dragons đã công bố một kế hoạch mở rộng lớn ở Bắc Hải vào năm 2020 và đã khởi động một máy làm giấy bìa tái chế công suất 800.000 tấn/năm, một dây chuyền bột giấy cơ học 200.000 tấn/năm và một máy làm giấy mịn không tráng phủ (UFP) công suất 550.000 tấn/năm từ tháng 11 năm 2023 đến tháng 1 năm 2024.

Tại Hồ Bắc, Ngoài việc mở rộng đang diễn ra ở Quảng Tây, Nine Dragons đã lên lại kế hoạch cho nhà máy của mình ở thành phố Kinh Châu, tỉnh Hồ Bắc do những thay đổi của thị trường.

Công ty đã quyết định bổ sung công suất 600.000 tấn UFP cho nhà máy vào quý 2 năm 2025, thay vì 600.000 tấn giấy kraftliner và 600.000 tấn giấy sóng công suất trung bình như dự kiến ban đầu tại địa điểm này.

Trước khi thay đổi nhà máy Kinh Châu, Nine Dragons cũng đã tạm dừng một số dự án giấy bìa và giấy bìa tái chế vào năm 2023.

Vào tháng 9 năm 2023, công ty đã thông báo hủy bỏ một máy giấy kraftliner công suất 300.000 tấn/năm và một máy white-top liner công suất 450.000 tấn/năm được lên kế hoạch tại nhà máy Bắc Hải và một dự án bột giấy tái chế công suất 600.000 tấn/năm ở Malaysia.

Trong báo cáo tài chính mới nhất cho nửa năm kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2023, Nine Dragons tuyên bố rằng sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc yếu hơn dự kiến trong giai đoạn này, niềm tin của người tiêu dùng và nhu cầu tổng thể không đủ, điều này đã làm ảnh hưởng đến thị trường giấy và bìa đóng gói (P&B) và thị trường này không thể hỗ trợ đầy đủ giá.

Lãi suất cao, công suất mới và làn sóng nhập khẩu tràn vào cũng gây áp lực giảm giá cho thị trường.

Chuyển lỗ thành lãi: Đối mặt với thị trường bao bì khó khăn, tuy nhiên Nine Dragons đã thoát khỏi cảnh báo lỗ.

Công ty đạt lợi nhuận ròng 292 triệu RMB (40,6 triệu USD) trong sáu tháng kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2023, so với khoản lỗ 1,39 tỷ RMB trong cùng kỳ năm 2022.

Nine Dragons cho rằng sự tăng trưởng là do cắt giảm chi phí. Mặc dù giá sản phẩm P&B của công ty đã giảm trong nửa cuối năm 2023 nhưng chi phí nguyên liệu thô lại giảm nhiều hơn. Việc khởi động dây chuyền wood fiber cũng giúp tối ưu hóa chi phí sản xuất.

Vào năm 2023, công ty bắt đầu xây dựng tổng công suất wood fiber 1,75 triệu tấn/năm ở Trung Quốc và 100.000 tấn/năm ở Việt Nam.

 

Nguồn: Risi

Biên dịch và tổng hợp VPPA

Bộ Công Thương khảo sát nhu cầu đào tạo để thực thi, tận dụng các FTA của Việt Nam

Cụ thể, Bộ Công Thương vừa ban hành văn bản số 1176/BCT- ĐB ngày 27 tháng 2 năm 2024 về việc “Khảo sát nhu cầu đào tạo để thực thi và tận dụng các Hiệp định thương mại tự do của Việt Nam (FTA)”.

Theo đó, tại Văn bản số 8043/VPCP-QHQT ngày 17 tháng 10 năm 2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã chỉ đạo Bộ Công Thương chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về Hiệp định thương mại tự do (FTA) cho các cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các FTA.

Để việc xây dựng chương trình và nội dung đào tạo tiết kiệm, hiệu quả và phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng tham gia, Bộ Công Thương đã xây dựng bản “Khảo sát nhu cầu đào tạo để thực thi và tận dụng các Hiệp định thương mại tự do của Việt Nam (FTA)”.

Các đối tượng thực hiện khảo sát này bao gồm: Các cán bộ làm tại các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương; các cán bộ làm tại các cơ quan quản lý nhà nước cấp địa phương có liên quan đến việc triển khai và thực thi các FTA; các hiệp hội và doanh nghiệp có liên quan đến việc tận dụng các FTA; và giảng viên, sinh viên và các nhà nghiên cứu có quan tâm đến FTA tại các viện, trường đại học và cao đẳng.

Các đối tượng thực hiện khảo sát sẽ được Bộ Công Thương cung cấp thông tin và hỗ trợ đăng ký tham gia vào các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu do Bộ Công Thương trực tiếp hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai.

Khảo sát được xây dựng trên nền tảng Google Form với thời lượng trả lời từ 3-5 phút. Các cơ quan/đơn vị/tổ chức/cá nhân có quan tâm có thể tham gia thực hiện khảo sát bằng cách trực tiếp truy cập vào Cổng thông tin về FTA của Chính phủ tại địa chỉ: http://fta.gov.vn để tải mã QR và thực hiện khảo sát.

Thời hạn thực hiện khảo sát là ngày 03 tháng 3 năm 2024.

 

Bảo Thoa

Thước đo lạm phát ưa thích của FED tăng mạnh nhất trong 4 tháng, lộ trình cắt giảm lãi suất sẽ ra sao?

Lạm phát tại Mỹ trong tháng 1 tăng với tốc độ nhanh nhất trong 4 tháng dựa trên chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) – thước đo lạm phát ưa thích của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Điều này cho thấy áp lực giá có thể không quay trở lại mức thấp như trước đại dịch nhanh như mong đợi.

PCE lõi, không tính giá thực phẩm và năng lượng, tăng 0,4% trong tháng 1 và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng đúng như dự đoán của Dow Jones, theo báo cáo hôm thứ Năm của Cục Phân tích Kinh tế thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ.

Tính chung, PCE tăng 0,3% trong tháng và 2,4% so với cùng kỳ năm ngoái, đúng với dự đoán của các nhà kinh tế do Wall Street Journal khảo sát.

Các chỉ số tăng trong bối cảnh thu nhập cá nhân bất ngờ tăng vọt 1%, cao hơn nhiều so với dự báo 0,3%. Trong khi đó, chi tiêu giảm 0,1% so với ước tính tăng 0,2%.

Chi tiêu tiêu dùng cá nhân trong tháng 1 tăng phản ánh nền kinh tế đang chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ trong bối cảnh bình thường hóa hậu đại dịch Covid-19, CNBC nhận định.

Giá dịch vụ tăng 0,6% trong tháng trước, trong khi giá hàng hóa giảm 0,2%. So với cùng kỳ năm trước, giá dịch vụ tăng 3,9% và hàng hóa giảm 0,5%. Trong số đó, giá thực phẩm tăng 0,5%, bù đắp cho mức giảm 1,4% của năng lượng. So với cùng kỳ năm trước, giá thực phẩm tăng 1,4% trong khi năng lượng giảm 4,9%.

Trước tin tức mới nhất, hợp đồng tương lai chứng khoán của Mỹ hầu hết đều tăng cao hơn sau khi dữ liệu lạm phát PCE lõi tháng 1 đúng với kỳ vọng. Lãi suất trái phiếu kho bạc cũng tăng cao hơn một chút.

Các quan chức Fed đã cảnh báo rằng con đường đạt được mục tiêu lạm phát hàng năm ổn định ở mức 2% sẽ rất “gập ghềnh”. Dữ liệu mới nhất cho thấy ngân hàng trung ương khó có thể cắt giảm lãi suất, sớm nhất là cho đến cuối mùa xuân hoặc đầu mùa hè.

Các quan chức Fed cho biết họ muốn có thêm bằng chứng thuyết phục hơn rằng lạm phát đang chậm lại trước khi cắt giảm lãi suất. Chủ tịch Fed New York John Williams cho biết hôm thứ Tư: “Chúng ta vẫn còn nhiều cách để tiếp tục hành trình đạt được mục tiêu lạm phát ở mức 2%.

Fed đang duy trì lãi suất ở mức cao nhất trong hơn 22 năm, ở mức 5,5%. Phố Wall đang mong đợi đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên vào tháng 6.

 

Theo CNBC, Market Watch

Yến Nguyễn

Nhịp Sống Thị Trường

Suzano ấn định mức tăng giá tháng 3 cho doanh số bán bột giấy BEK ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á

Không giống như hai tháng trước, khi Suzano thông báo tăng giá cho khách hàng ở châu Âu và Bắc Mỹ, đợt tăng giá trong tháng 3 cũng sẽ áp dụng cho khách hàng ở châu Á.

Công ty thông báo tăng giá 30 USD/tấn ở châu Á và 80 USD/tấn ở Bắc Mỹ và châu Âu bắt đầu vào tháng tới.

Suzano không làm việc với giá niêm yết ở châu Á, nhưng công ty đang nói về giá niêm yết tháng 3 là 1.300 USD/tấn ở châu Âu và 1.490 USD/tấn ở Bắc Mỹ.

Suzano được cho là đã thông báo cho khách hàng ở tất cả các khu vực rằng việc tăng giá được hỗ trợ bởi lượng hàng tồn kho trong chuỗi cung ứng thấp hơn, đặc biệt là ở châu Âu; cuộc khủng hoảng hậu cần ảnh hưởng đến các tuyến vận tải Biển Đỏ và Kênh đào Panama; và những dấu hiệu tích cực sơ bộ về nhu cầu ở châu Á sau Tết Nguyên đán.

Nguồn: Risi

Biên dịch và tổng hợp VPPA

Klabin đặt ra mức tăng giá bột giấy BEK mới, có hiệu lực từ doanh số tháng 3

Các nhà sản xuất Mỹ Latinh khác là Suzano và Eldorado cũng công bố mức tăng tương tự vào đầu tuần này.

Klabin đang đặt mục tiêu tăng giá 30 USD/tấn cho doanh số bán hàng ở châu Á, trong khi công ty đã thông báo cho khách hàng ở châu Âu và Bắc Mỹ về mức tăng giá 80 USD/tấn đối với các khu vực đó.

 

Nguồn: Risi

Biên dịch và tổng hợp VPPA

2 tháng đầu năm cả nước xuất siêu 4,72 tỷ USD

Theo số liệu vừa thông báo của Tổng Cục Thống kê, trong tháng 2/2024 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của cả nước ước đạt 48,54 tỷ USD, giảm 25,8% so với tháng trước và giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 113,96 tỷ USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 19,2%; nhập khẩu tăng 18%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 4,72 tỷ USD.

Cụ thể, về xuất khẩu hàng hóa, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 2/2024 ước đạt 24,82 tỷ USD, giảm 28,1% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 6,62 tỷ USD, giảm 30,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 18,2 tỷ USD, giảm 27,2%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 2/2024 giảm 5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 0,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 7%.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 59,34 tỷ USD, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 16,14 tỷ USD, tăng 33,3%, chiếm 27,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 43,2 tỷ USD, tăng 14,7%, chiếm 72,8%.

Trong 2 tháng đầu năm 2024 có 11 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 75,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,5%).

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2024, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 0,59 tỷ USD, chiếm 1%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 52,45 tỷ USD, chiếm 88,4%; nhóm hàng nông sản, lâm sản ước đạt 5 tỷ USD, chiếm 8,4%; nhóm hàng thủy sản ước đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 2,2%.

Về nhập khẩu hàng hóa, theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 2/2024 ước đạt 23,72 tỷ USD, giảm 23,2% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,42 tỷ USD, giảm 25,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15,3 tỷ USD, giảm 22,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Hai tăng 1,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 5,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,1%.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 54,62 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 19,67 tỷ USD, tăng 27,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,95 tỷ USD, tăng 13,3%.

Trong 2 tháng đầu năm 2024 có 13 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 71% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 41,3%).

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 2 tháng đầu năm 2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 51,47 tỷ USD, chiếm 94,2%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 47%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 47,2%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng ước đạt 3,15 tỷ USD, chiếm 5,8%.

Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 2 tháng đầu năm 2024, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 17,4 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 20,9 tỷ USD. Trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất siêu sang Hoa Kỳ ước đạt 15,2 tỷ USD tăng 36,6% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu sang EU ước đạt 5,3 tỷ USD, tăng 13,9%; xuất siêu sang Nhật Bản 0,4 tỷ USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 0,2 tỷ USD); nhập siêu từ Trung Quốc 12,8 tỷ USD, tăng 98,2%; nhập siêu từ Hàn Quốc 3,7 tỷ USD, giảm 4,3%; nhập siêu từ ASEAN 1 tỷ USD, giảm 21,9%.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4,72 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 3,5 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 3,53 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 8,25 tỷ USD.

Hải Linh
Báo Công Thương

Công khai lãi suất cho vay để khơi dòng chảy vốn

Buộc công khai lãi suất cho vay bình quân

Tín dụng toàn ngành ngân hàng tháng 1/2024 tăng trưởng âm 0,6% so với cuối năm 2023. Tại TP.HCM, tín dụng giảm mạnh hơn, với mức giảm 0,93%, trong khi cùng kỳ năm trước chỉ giảm 0,48%. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay giảm so cuối năm 2023.

Do đó, việc công khai lãi suất cho vay bình quân được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu phải thực hiện sớm. Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN) cho biết, ngày 23/2 là thời hạn cuối cùng để các tổ chức tín dụng báo cáo tình hình công bố lãi suất cho vay bình quân.

Nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, lãnh đạo NHNN đã có Chỉ thị 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ năm 2024, trong đó chỉ đạo các tổ chức tín dụng công bố công khai và chịu trách nhiệm về lãi suất cho vay bình quân và chênh lệch lãi suất tiền gửi, cho vay bình quân trên website của từng tổ chức tín dụng.

NHNN đã đề nghị các ngân hàng thương mại tổng kết đánh giá lãi suất để thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ. Các ngân hàng nêu chi tiết các khó khăn, vướng mắc, đồng thời kiến nghị giải pháp để thực hiện tốt nhất chỉ đạo của Chính phủ về công khai thông tin lãi suất cho vay.

Trước đó, NHNN đã có Công văn số 117/NHNN-CSTT ngày 7/2/2024 yêu cầu tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, của NHNN về vấn đề lãi suất và báo cáo tình hình công bố lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân.

Tại Thông báo số 527/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ ngày 18/12/2023, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng nghiên cứu việc công bố công khai lãi suất cho vay bình quân của từng tổ chức tín dụng và chênh lệch lãi suất bình quân tiền gửi và cho vay; qua đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp, người dân lựa chọn ngân hàng có lãi suất thấp để vay.

Khơi thông dòng chảy tín dụng

Các ngân hàng cho rằng, lâu nay, lãi suất cho cá nhân vay mua nhà, tiêu dùng… đều được các nhà băng công khai, nhằm thu hút khách hàng vay vốn. Song với khách hàng doanh nghiệp, sẽ có bất cập khi công bố lãi suất cho vay bình quân, vì rủi ro của mỗi khoản vay khác nhau, lãi suất cho vay áp dụng cũng không giống nhau.

Ông Lê Quốc Long, Tổng giám đốc SeABank cho rằng, việc công bố lãi suất cho vay bình quân với doanh nghiệp là một yêu cầu khó đối với các ngân hàng, bởi liên quan đến việc “may đo” cho từng doanh nghiệp, từng chính sách và mức độ rủi ro khác nhau. Vì vậy, đây là một trong những vấn đề cần được xem xét để có thể phối hợp hài hòa giữa doanh nghiệp và ngân hàng.

Đồng quan điểm, Phó tổng giám đốc Techcombank, ông Phạm Quang Thắng cho hay, hiện lãi suất đã giảm dần (cả với lãi suất cho vay). Lãi suất cho vay tùy thuộc vào từng đối tượng khách hàng và mức độ rủi ro. Việc công bố lãi suất cho vay bình quân đối với doanh nghiệp có nhiều khó khăn, bất cập, nên chỉ có thể công bố được lãi suất cho vay cá nhân.

Thế nhưng, theo Phó thống đốc thường trực NHNN, ông Đào Minh Tú, chỉ công khai lãi suất cho vay bình quân, không phải lãi suất cho vay với từng đối tượng, doanh nghiệp, hay từng loại hình. “Chúng ta phấn đấu để có sự công bằng, khách quan trong cạnh tranh, thì việc công khai lãi vay bình quân không có gì khó khăn”, ông Tú nhấn mạnh.

Theo ông Tú, trước mắt, nếu các ngân hàng thương mại chưa thực hiện, NHNN cũng chưa có chế tài bởi chưa có quy định nào về vấn đề này, song các ngân hàng sẽ phải chịu “chế tài” của dư luận.

Nguồn: Báo đầu tư

Giải thưởng Bao bì Việt Nam 2024.

I. Thông tin chung về Giải thưởng

  1. Tên thương hiệu của Giải thưởng: Giải thưởng Bao bì Việt Nam 2024 
  2. Logo: TRÁI DỪA VÀNG; Slogan: Bao bì Xanh vì Trái đất Xanh
  3. Giải thưởng sẽ được công bố vào ngày 08/05/2024 tại Triển lãm Quốc tế Giấy và Bao bì Việt Nam (VPPE) tại Trung tâm Triển lãm Thành phố mới Bình Dương – WTC EXPO BDNC. Bao bì dự thi sẽ được trưng bày tại gian hàng Vinpas của Triển lãm VPPE để khách tham quan có thể thưởng lãm.
  4. Hội đồng Giám khảo cuộc thi gồm các chuyên gia về bao bì trong và ngoài nước.
  5. Cơ cấu giải thưởng:
  • 03 Giải Xuất sắc
  • 03 Giải Chính
  • 12 Giải Chuyên đề, gồm: 03 Giải “Bao bì có công nghệ phù hợp”; 03 Giải “Bao bì có thiết kế ấn tượng”; 03 Giải “Bao bì bền vững” và 03 Giải “Bao bì sáng tạo”.
  • 03 Giải “Bao bì được yêu thích” từ bình chọn của công chúng thông qua website Vinpas (hhbb.vn; vinpas.vn).
  1. Quyền lợi doanh nghiệp đạt giải thưởng:
  • Được nhận Giấy chứng nhận, Cup, kèm theo hiện kim do Hiệp hội Bao bì Việt Nam trao tặng;
  • Được đăng thông tin doanh nghiệp đạt giải thưởng trên website của Hiệp hội (hhbb.vn; vinpas.vn) trong 12 tháng;
  • Doanh nghiệp đạt giải thưởng được quyền quảng bá giải thưởng đã đạt.

II. Đối tượng và điều kiện dự thi

  1. Đối tượng dự thi: Doanh nghiệp sản xuất bao bì toàn quốc. Doanh nghiệp có cán bộ, chuyên gia tham gia Hội đồng Giám khảo không dự thi.
  2. Bao bì dự thi bao gồm các loại bao bì cho tất cả các ngành hàng.
  3. Bao bì dự thi đã được đưa ra thị trường ít nhất 3 tháng tính đến ngày doanh nghiệp gửi hồ sơ dự thi (theo dấu bưu điện) và chưa đạt được giải thưởng nào.
  4. Mỗi doanh nghiệp được gửi tối đa 05 bài dự thi.

III. Tiêu chí chấm điểm

  1. 25 điểm | Đáp ứng đầy đủ các chức năng kỹ thuật của bao bì
  2. 25 điểm | Đáp ứng đầy đủ các chức năng tiếp thị của bao bì
  3. 15 điểm | Đạt hiệu quả kinh tế
  4. 15 điểm | Đáp ứng xu hướng bao bì bền vững
  5. 20 điểm | Thể hiện tính sáng tạo, đổi mới
  6. 05 điểm | Điểm thưởng của Ban Giám khảo

Tổng cộng: 100 điểm và 5 điểm thưởng

Tiêu chí chấm điểm được cụ thể hóa tại mẫu Đăng ký dự thi đính kèm.

IV. Hồ sơ đăng ký dự thi

  1. Giấy phép đăng ký kinh doanh (bản copy).
  2. Mỗi bài dự thi cần có:

a) Thư giới thiệu hoặc đồng ý cho dự thi của đơn vị đặt hàng (đính kèm mẫu Thư giới thiệu – ? Tải tại đây ); hoặc Thư giới thiệu hoặc nhận xét về bao bì dự thi từ nhà Sở hữu thương hiệu;

b) 10 bao bì dự thi đã được sản xuất;

c) Bài thuyết minh mô tả bao bì dự thi, theo mẫu Đăng ký dự thi đính kèm.

d) Khuyến khích có hình ảnh, video giới thiệu về bao bì dự thi, dạng JPEG hoặc RGB, dung lượng tối thiểu 500KB

  1. Để biết thêm thông tin về hồ sơ dự thi, vui lòng liên lạc Bà Lương Thị Thúy Ngân-Tổng Thư Ký Vinpas: 098-3070-663 (Zalo); nganliksin@gmail.com

? Tải Mẫu Đăng ký dự thi: tại đây

V. Thông tin gửi hồ sơ dự thi

  1. Địa chỉ gửi hồ sơ dự thi:  Văn phòng Hiệp hội Bao bì Việt Nam: số 81 đường số 5, Phường Bình Trị Đông B, Quận Bình Tân, TP. HCM; người nhận: Cô Phương Nhi- Thư ký Văn Phòng Vinpas, số điện thoại: 096-8785-010
  1. Thời hạn gửi hồ sơ dự thi: Hạn chót ngày 31/03/2024 (theo dấu bưu điện).

‍Ban Chấp hành Hiệp hội Bao bì Việt Nam tin tưởng Giải thưởng bao bì Việt nam 2024 được các doanh nghiệp sản xuất bao bì nhiệt tình hưởng ứng, đồng thời nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân đồng hành với sự nghiệp phát triển công nghiệp bao bì Việt Nam./.

Thư mời dự thi vui lòng tải tại đây: 2.1. THU MOI DU THI GT BBVN 2024 

 

Nguồn: Vinpas.vn

Chính phủ cho ý kiến về đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số

Theo chương trình phiên họp,Chính phủ sẽ xem xét cho ý kiến, quyết nghị đối với 11 nội dung (6 dự án luật, 4 đề nghị xây dựng pháp luật và đề nghị về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh).

Cụ thể, 6 dự án luật được thảo luận gồm: Dự án Luật Phòng không nhân dân; dự án Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi); dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi); dự án Luật Địa chất và Khoáng sản; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược.

4 đề nghị xây dựng luật gồm: Đề nghị xây dựng Luật Hàm, cấp ngoại giao; đề nghị xây dựng Luật Hàng không (sửa đổi); đề nghị xây dựng Luật Đường sắt (sửa đổi); đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số.

Chính phủ cũng xem xét, cho ý kiến về đề nghị về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024.

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại, xây dựng và hoàn thiện thể chế là một trong ba đột phá chiến lược đã được Đảng, Nhà nước ta xác định. Năm 2024, ngay trong những ngày đầu năm, chúng ta đã và đang nỗ lực, khẩn trương triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó, đột phá về thể chế tiếp tục là một nhiệm vụ trọng tâm.

Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều nỗ lực và đạt nhiều kết quả trong xây dựng và hoàn thiện thể chế, song có những quy định đã bị thực tiễn vượt qua; nhiều lĩnh vực mới đang phát triển đòi hỏi phải có quy định của pháp luật để điều chỉnh.

Tháng 1/2024, Chính phủ đã họp phiên chuyên đề về xây dựng pháp luật với 5 nội dung. Nhiệm vụ tháng 2 còn nặng nề hơn, vừa tích cực chuẩn bị trình Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh năm 2024 (phải trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước ngày 1/3/2024), vừa quyết nghị các dự án luật phục vụ Kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XV (tháng 5/2024).

Theo Thủ tướng, những nội dung của phiên họp đều là những nội dung quan trọng, khó, với yêu cầu cao, trong khi thời gian và nguồn lực có hạn. Để bảo đảm tiến độ và nâng cao chất lượng, Thủ tướng yêu cầu với các cơ quan chủ trì, soạn thảo, các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan phải trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, đề nghị xây dựng pháp luật, các cơ quan liên quan phải có ý kiến kịp thời; bố trí các cán bộ có năng lực, trình độ, tâm huyết cho công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế; rà soát lại chế độ, chính sách bảo đảm phù hợp cho các cán bộ làm công tác này với quan điểm đầu tư cho xây dựng thể chế chính là đầu tư cho sự phát triển.

Thủ tướng lưu ý trong quá trình xây dựng các dự án luật, các đề nghị xây dựng pháp luật thì chỉ lấy ý kiến một lần các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan, nếu còn ý kiến khác nhau thì Phó Thủ tướng phụ trách chủ trì triệu tập cuộc họp với các bộ, cơ quan để xử lý ngay. Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan cần chuẩn bị, ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn để thi hành ngay sau khi các luật có hiệu lực.

Chính phủ cho ý kiến về đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số
Toàn cảnh phiên họp – Ảnh VGP/Nhật Bắc

Với tinh thần “khó khăn ở đâu tháo gỡ ở đó, vướng mắc ở cấp nào thì cấp đó giải quyết”, Thủ tướng đề nghị các cơ quan tiếp tục rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định, bảo đảm rõ ràng, chặt chẽ, minh bạch, công khai, sát thực tiễn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát, dễ đánh giá, để các đối tượng thực thi, tuân thủ pháp luật yên tâm thực hiện.

Thủ tướng nhấn mạnh, thực tiễn cho thấy nếu công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật được chuẩn bị kỹ, làm tốt việc tổng kết thực tiễn, dự báo tình hình, thì các quy định, chính sách sau khi ban hành sẽ đi ngay vào cuộc sống, giải quyết được những khó khăn, vướng mắc, còn nếu chuẩn bị không kỹ, không tốt thì vừa làm xong đã phải sửa đổi, bổ sung.

 

Thái Bình
Báo Công Thương

Những chính sách kinh tế, xã hội có hiệu lực từ tháng 3/2024

Nhiều ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào khu công nghệ cao

Theo Nghị định số 10/2024/NĐ-CP quy định về khu công nghệ cao, có hiệu lực từ ngày 25/3, có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào khu công nghệ cao như: Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghệ cao; cơ chế khuyến khích đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật; chính sách phát triển hạ tầng xã hội phục vụ người lao động trong khu công nghệ cao; chính sách đối với hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ cao, ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao…

Các dự án đầu tư và hoạt động tại khu công nghệ cao được ưu tiên tham gia chương trình hỗ trợ đào tạo, tuyển dụng lao động; hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ vốn vay và các chương trình hỗ trợ khác của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.

Ngoài ra, về cơ chế khuyến khích đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật, Nghị định quy định Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đủ kinh nghiệm, năng lực tham gia đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghệ cao, bao gồm: Đầu tư xây dựng và kinh doanh toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghệ cao, hoặc một phần hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghệ cao.

Quy định mới về kiểm tra chất lượng phương tiện đường sắt

Ngày 26/1/2024, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư 01/2024/TT-BGTVT quy định về việc kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông đường sắt. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 15/3/2024.

Theo Thông tư, các loại hình kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường gồm: Kiểm tra sản xuất, lắp ráp; kiểm tra nhập khẩu; kiểm tra hoán cải; kiểm tra định kỳ.

Cụ thể, kiểm tra sản xuất, lắp ráp được thực hiện đối với thiết bị, phương tiện sản xuất, lắp ráp mới; kiểm tra nhập khẩu được thực hiện đối với thiết bị, phương tiện nhập khẩu mới, phương tiện nhập khẩu đã qua sử dụng; kiểm tra hoán cải được thực hiện đối với phương tiện chạy trên đường sắt quốc gia, phương tiện chạy trên đường sắt chuyên dùng.

Kiểm tra định kỳ được thực hiện đối với phương tiện chạy trên đường sắt quốc gia, phương tiện chạy trên đường sắt chuyên dùng, phương tiện chạy trên đường sắt đô thị, thiết bị tín hiệu đuôi tàu.

Chu kỳ kiểm tra định kỳ được quy định rõ theo loại phương tiện, thời gian khai thác. Đơn cử, với phương tiện nhập khẩu và sản xuất, lắp ráp mới trên đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị, chu kỳ kiểm tra đầu của đầu máy, phương tiện chuyên dùng tự hành là 18 tháng, của toa xe khách là 28 tháng, của toa xe hàng, phương tiện chuyên dùng không tự hành là 36 tháng.

Với phương tiện đã khai thác trên đường sắt quốc gia dưới hoặc bằng 30 năm tính từ năm sản xuất, chu kỳ kiểm tra định kỳ của đầu máy, phương tiện chuyên dùng tự hành là 18 tháng, của toa xe khách là 14 tháng, của toa xe hàng, phương tiện chuyên dùng không tự hành là 20 tháng.

Phương tiện khai thác trên 30 năm tính từ năm sản xuất và còn niên hạn sử dụng, thì chu kỳ kiểm tra định kỳ của đầu máy, phương tiện chuyên dùng tự hành là 15 tháng, của toa xe khách là 12 tháng, của toa xe hàng, phương tiện chuyên dùng không tự hành là 15 tháng.

Với phương tiện đã khai thác trên đường sắt đô thị dưới hoặc bằng 30 năm tính từ năm sản xuất, chu kỳ kiểm tra định kỳ của phương tiện chuyên dùng tự hành là 18 tháng, của toa xe đường sắt đô thị là 14 tháng, của phương tiện chuyên dùng không tự hành là 20 tháng. Với phương tiện khai thác trên 30 năm tính từ năm sản xuất và còn niên hạn sử dụng, chu kỳ kiểm tra định kỳ của phương tiện chuyên dùng tự hành là 15 tháng, của toa xe đường sắt đô thị là 12 tháng, của phương tiện chuyên dùng không tự hành là 15 tháng.

Thông tư cũng quy định: Chủ phương tiện, chủ khai thác phương tiện có trách nhiệm thực hiện kiểm tra tình trạng hoạt động của phương tiện để phương tiện bảo đảm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường trước khi tham gia giao thông; chịu trách nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện giữa hai kỳ kiểm tra của cơ quan kiểm tra…

Tăng trần giá vé máy bay nội địa

Bộ Giao thông vận tải vừa ban hành Thông tư số 34/2023/TT-BGTVT về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 17/2019/TT-BGTVT ban hành khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa.

Thông tư 34/2023/TT-BGTVT có hiệu lực từ ngày 1/3. Theo đó, Thông tư sửa đổi khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách hạng phổ thông cơ bản. Các đường bay có khoảng cách dưới 500km có mức giá trần là 1,6 triệu đồng/vé/chiều với đường bay phát triển kinh tế – xã hội và 1,7 triệu đồng/vé/chiều với các đường bay khác.

Những chính sách kinh tế, xã hội có hiệu lực từ tháng 3/2024
Từ ngày 1/3 sẽ tăng trần giá vé máy bay nội địa

Các nhóm đường bay còn lại chịu mức tăng giá từ 50.000-250.000 đồng/vé/chiều so với quy định cũ, phụ thuộc vào độ dài từng đường bay.

Cụ thể, với đường bay từ 500km đến dưới 850km có mức giá trần là 2,25 triệu đồng/vé/chiều (giá cũ là 2,2 triệu đồng/vé/chiều); đường bay có khoảng cách từ 850km đến dưới 1.000 km có giá vé tối đa là 2,89 triệu đồng/vé/chiều (giá cũ là 2,79 triệu đồng/vé/chiều); đường bay từ 1.000km đến dưới 1.280km có giá trần là 3,4 triệu đồng/vé/chiều (giá cũ là 3,2 triệu đồng/vé/chiều) và đường bay có khoảng cách từ 1.280 km trở lên là 4 triệu đồng/vé/chiều (giá cũ là 3,75 triệu đồng/vé/chiều).

Mức giá tối đa đã bao gồm toàn bộ chi phí hành khách phải trả cho một vé máy bay, trừ thuế giá trị gia tăng và các khoản thu hộ cho cảng hàng không (bao gồm giá phục vụ hành khách và giá đảm bảo an ninh hành khách, hành lý; khoản giá dịch vụ với các hạng mục tăng thêm).

Chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục đại học

Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT quy định chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục đại học. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 22/3 và bãi bỏ Thông tư số 24/2015/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục đại học.

Chuẩn cơ sở giáo dục đại học là cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện bảo đảm chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.

Chuẩn cơ sở giáo dục đại học bao gồm 6 tiêu chuẩn với 20 tiêu chí. Cụ thể, Tiêu chuẩn 1: Tổ chức và quản trị gồm 4 tiêu chí; Tiêu chuẩn 2: Giảng viên gồm 3 tiêu chí; Tiêu chuẩn 3: Cơ sở vật chất gồm 4 tiêu chí; Tiêu chuẩn 4: Tài chính gồm 2 tiêu chí; Tiêu chuẩn 5: Tuyển sinh và đào tạo gồm 5 tiêu chí; Tiêu chuẩn 6: Nghiên cứu và đổi mới sáng tạo gồm 2 tiêu chí.

Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các cơ sở giáo dục đại học cung cấp, cập nhật dữ liệu phục vụ việc xác định các chỉ số và đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chí của chuẩn cơ sở giáo dục đại học vào hệ thống cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học. Công bố kết quả thực hiện chuẩn cơ sở giáo dục đại học của các cơ sở giáo dục đại học trước ngày 30/6 hằng năm, bắt đầu từ năm 2025 cho năm báo cáo trước liền kề.

Lệ phí cấp phép nhận chìm ở biển

Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 8/2024/TT-BTC ngày 5/2/2024 quy định mức thu, chế độ thu, nộp lệ phí cấp giấy phép nhận chìm ở biển. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/3/2024.

Thông tư này quy định mức thu, chế độ thu, nộp lệ phí cấp giấy phép nhận chìm ở biển, bao gồm: cấp, cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung giấy phép nhận chìm ở biển.

Tổ chức thu lệ phí là cơ quan có thẩm quyền cấp, cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung giấy phép nhận chìm ở biển theo quy định pháp luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Tổ chức thu lệ phí nộp 100% số tiền lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước. Nguồn chi phí trang trải cho việc thu lệ phí được ngân sách nhà nước bố trí trong dự toán của tổ chức thu lệ phí theo chế độ, định mức chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Tổ chức thu lệ phí thực hiện kê khai, thu, nộp lệ phí theo quy định tại Thông tư số 74/2022/TT-BTC.

Lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký bán hàng đa cấp

Cùng ngày 5/2/2024, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 09/2024/TT-BTC (Thông tư 09) quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/3/2024.

Những chính sách kinh tế, xã hội có hiệu lực từ tháng 3/2024
Lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký bán hàng đa cấp sẽ thay đổi từ ngày 21/3

Cụ thể, Thông tư 09 được áp dụng đối với người nộp phí; tổ chức thu phí; tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Người nộp phí theo quy định tại Thông tư 09 là doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.

Theo Thông tư số 09, mức thu phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp như sau: Đối với trường hợp cấp mới, gia hạn giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp: 5 triệu đồng/lần thẩm định; Đối với trường hợp sửa đổi, bổ sung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp là 3 triệu đồng/lần thẩm định.

Tổ chức thu phí theo quy định tại Thông tư này, bao gồm: Bộ Công Thương hoặc cơ quan nhà nước thuộc Bộ Công Thương được giao thực hiện thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật.

Tổ chức thu phí được trích để lại 90% số tiền phí thu được để chi cho hoạt động thẩm định, thu phí theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 82/2023/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phí và lệ phí; nộp 10% số tiền phí thu được vào ngân sách nhà nước.

Trường hợp tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước không thuộc diện được khoán chi phí hoạt động từ nguồn thu phí theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 82/2023/NĐ-CP thì nộp toàn bộ số tiền phí thu được vào ngân sách nhà nước. Nguồn chi phí trang trải cho hoạt động thẩm định, thu phí do ngân sách nhà nước bố trí trong dự toán của tổ chức thu phí theo chế độ, định mức chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

Lệ phí cấp phép khai thác khoáng sản quý hiếm

Cũng trong ngày 5/2/2024, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 10/2024/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định đánh giá trữ lượng khoáng sản và lệ phí cấp giấy phép hoạt động khoáng sản. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/3/2024.

Thông tư nêu rõ, người nộp lệ phí là tổ chức, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản.

Người nộp phí là tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ đề nghị phê duyệt trữ lượng khoáng sản cho cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt trữ lượng báo cáo thăm dò khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản.

Tổ chức thu lệ phí là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản. Tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt trữ lượng báo cáo thăm dò khoáng sản theo quy định.

Mức thu lệ phí cấp giấy phép hoạt động khoáng sản đối với hoạt động thăm dò: Diện tích thăm dò nhỏ hơn 100ha, mức thu là 4 triệu đồng/1 giấy phép. Diện tích thăm dò từ 100ha đến 50.000ha, mức thu là 10 triệu đồng/1 giấy phép. Diện tích thăm dò trên 50.000ha, mức thu là 15 triệu đồng/1 giấy phép.

Mức thu lệ phí cấp giấy phép hoạt động khoáng sản đối với hoạt động khai thác: Giấy phép khai thác cát, sỏi lòng suối: Có công suất khai thác dưới 5.000 m3/năm: 1 triệu đồng/giấy phép; công suất khai thác từ 5.000 m3 đến 10.000 m3/năm: 10 triệu đồng/giấy phép; công suất khai thác trên 10.000 m3/năm: 15 triệu đồng/giấy phép.

Giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường có diện tích dưới 10 ha và công suất khai thác dưới 100.000 m3/năm: 15 triệu đồng/giấy phép; giấy phép khai thác khoáng sản quý hiếm: 80 triệu đồng/giấy phép; giấy phép khai thác khoáng sản đặc biệt và độc hại: 100 triệu đồng/giấy phép.

Thu phí khai thác sử dụng tài liệu địa chất, khoáng sản

Ngày 5/2/2024, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 11/2024/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí khai thác và sử dụng tài liệu địa chất, khoáng sản. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/3/2024.

Theo Thông tư, tổ chức thu phí là các cơ quan có thẩm quyền cung cấp tài liệu địa chất, khoáng sản theo quy định của pháp luật.

Người nộp phí thực hiện nộp phí khi nhận kết quả tài liệu địa chất, khoáng sản từ cơ quan cung cấp tài liệu địa chất, khoáng sản; phí nộp cho tổ chức thu phí theo hình thức quy định tại Thông tư số 74/2022/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Tổ chức thu phí được trích để lại 60% số tiền phí thu được để trang trải chi phí cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 82/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phí và lệ phí và nộp 40% số tiền phí thu được vào ngân sách nhà nước.

Trường hợp tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước không thuộc diện được khoán chi phí hoạt động từ nguồn thu phí theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 82/2023/NĐ-CP nộp toàn bộ tiền phí thu được vào ngân sách nhà nước. Nguồn chi phí trang trải cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí do ngân sách nhà nước bố trí trong dự toán của tổ chức thu theo chế độ, định mức chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

Lê Na
Báo Công Thương