Phó Thủ tướng: Xem xét, thống nhất giải pháp xử lý dứt điểm Dự án Bột giấy Phương Nam

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Thủ tướng nêu rõ đây là dự án khó nhất trong 12 dự án yếu kém, thua lỗ của ngành Công Thương. Việc xử lý dự án đã kéo dài nhiều năm, lãnh đạo Chính phủ đã có nhiều cuộc họp, văn bản chỉ đạo xử lý đối với dự án này,…  tuy nhiên đến nay vẫn chưa có giải pháp xử lý dứt điểm.

Sau nghe Bộ Công Thương báo cáo về phương án xử lý đối với dự án, ý kiến phát biểu của đại diện các Bộ, ngành, địa phương, ngân hàng thương mại Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu, tiếp thu ý kiến xác đáng, phù hợp của các đại biểu dự họp, cập nhật số liệu, làm rõ thêm các vấn đề liên quan đến tài chính của dự án để làm căn cứ để hoàn thiện báo cáo, hồ sơ, đề xuất phương án khả thi nhất, phù hợp với quy định của pháp luật trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

“Việc xử lý dự án bột giấy Phương Nam phải bám sát kết luận của Bộ Chính trị, các ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, đảm bảo trung thực, đầy đủ số liệu thông tin, phản ánh đúng thực tế, khách quan; phương án đề xuất phải bảo đảm khả thi, thu hồi tối đa tài sản, chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng, hiệu quả, công khai, minh bạch, công bằng giữa các bên liên quan, đúng quy định và đúng thẩm quyền,…”, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh./.

Nhật Quang

vietstock.vn

Hội nghị “Logistics Việt Nam – Con đường phía trước” sẽ khai mạc vào sáng 5/10

Trước xu hướng ngày càng nhiều nhà sản xuất lớn trên thế giới có kế hoạch dịch chuyển cơ sở sản xuất sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, nhu cầu về các dịch vụ logistics nói chung và dịch vụ kho vận nói riêng được dự báo sẽ có những bước tăng trưởng mạnh mẽ.

Hiện đại hoá dịch vụ logistics bằng cách ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý, sử dụng công nghệ xanh, sạch và thân thiện môi trường sẽ là xu hướng tất yếu trong thời gian tới.

Nhằm nhận diện một cách rõ ràng các xu hướng, cơ hội và thách thức trước những thay đổi này, dưới sự bảo trợ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo Đầu tư và Công ty SLP Vietnam phối hợp tổ chức Hội nghị Logistics 2023 vào sáng thứ Năm, ngày 5/10 tại khách sạn Inter Continental Sài Gòn (góc đường Hai Bà Trưng và đại lộ Lê Duẩn, Quận 1, TP.HCM).

Hội nghị dự kiến có sự tham gia của 300 đại biểu là lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia trong ngành, các hiệp hội doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, các doanh nghiệp cung cấp và sử dụng dịch vụ logistics, các doanh nghiệp sản xuất thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau hiện đang thuê nhà xưởng và kho bãi, các đơn vị tư vấn đầu tư

Với chủ đề “Logistics Việt Nam – Con đường phía trước”, hội nghị gồm 2 phiên thảo luận.

Phiên 1: “Nhận định xu hướng logistics của Việt Nam”, trong phiên này các chuyên gia sẽ tập trung thảo luận 3 vấn đề.

Thứ nhất phân tích về tầm quan trọng để có một hệ thống các chính sách/quy định rõ ràng và thuận lợi trong việc định hình ngành logistics ở Việt Nam; các sáng kiến của chính phủ nhằm thúc đẩy môi trường thuận lợi cho tăng trưởng, thu hút đầu tư và thúc đẩy khả năng cạnh tranh; tác động của các hiệp định thương mại quốc tế tới ngành logistics Việt Nam….

Thứ hai, phân tích sự thay đổi toàn cầu đang diễn ra trong chuỗi cung ứng, nhấn mạnh đến việc di dời các cơ sở sản xuất; cơ hội thu hút FDI và trở thành trung tâm sản xuất/phân phối được ưa chuộng; những thách thức và chiến lược để Việt Nam tận dụng sự thay đổi toàn cầu này và củng cố vị thế của mình trong mạng lưới chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.

Thứ ba đánh giá về tình hình phát triển hạ tầng logistics Việt Nam, như: Đầu tư xây dựng hệ thống đường bộ, cầu, sân bay, cảng biển, đường sắt trong những năm gần đây; việc lập kế hoạch và thực hiện các trung tâm hậu cần; nhấn mạnh khả năng và năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ trong các lĩnh vực cảng, vận tải biển và hậu cần, bao gồm giao nhận, vận tải đường bộ, hải quan, hoạt động xuyên biên giới, IDC/bốc dỡ, kho bãi/kho chứa hàng hóa và hậu cần thông thường; nhận diện và thảo luận các giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển hạ tầng logistics…

Phiên thứ 2 với chủ đề “Tạo cơ hội cho logistics phát triển trong tương lai”, trong phiên này các chuyên gia sẽ tập trung thảo luận 4 vấn đề.

Thứ nhất, nhận diện và tìm giải pháp cho những thách thức hạn chế phát triển logistic như cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, khả năng tiếp cận công nghệ hạn chế và nhu cầu cần có lực lượng lao động có tay nghề cao; tầm quan trọng của sự hỗ trợ của chính phủ để vượt qua thách thức và thúc đẩy tăng trưởng ngành.

Thứ hai nhận định về sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử trên toàn cầu và tác động của nó đối với ngành logistics; những thách thức và cơ hội; chiến lược thực hiện đơn hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng để đạt được mục tiêu giao hàng nhanh hơn và chính xác hơn.

Thứ ba chia sẻ tầm quan trọng của công nghệ/đổi mới trong việc thúc đẩy hiệu quả và khả năng cạnh tranh trong ngành logistics; những thách thức và lợi ích của việc áp dụng công nghệ mới. Tự động hóa, AI, IoT và blockchain; những thách thức và cơ hội của việc áp dụng các công nghệ mới, bao gồm nhu cầu hiểu biết về kỹ thuật số, đầu tư cơ sở hạ tầng và các biện pháp an ninh mạng.

Thứ tư nhận diện về tầm quan trọng ngày càng tăng của tính bền vững và thực tiễn chuỗi cung ứng xanh trong ngành hậu cần; tầm quan trọng của các sáng kiến thân thiện với môi trường trong việc đạt được một hệ sinh thái logistics tuần hoàn và bền vững hơn.

Sự kiện sẽ phát trực tuyến trên Fanpage, Youtube và các nền tảng trực tuyến của Báo Đầu tư.

Nguồn: Báo đầu tư

Ngân hàng Thế giới dự báo GDP Việt Nam tăng trưởng 4,7%

Trong báo cáo kinh tế khu vực Đông Á – Thái Bình Dương thường kỳ 6 tháng công bố ngày 2-10, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định nền kinh tế phải đối mặt với những rủi ro liên quan đến tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc, nhu cầu trong nước yếu kéo dài, bên cạnh những yếu kém gia tăng ở khu vực tài chính trong nước.

Nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng 4,7% trong năm 2023 do sức cầu trong nước và bên ngoài yếu đi, sau đó dự báo sẽ hồi phục về mức 5,5% trong năm 2024 và 6,0% trong năm 2025. Nhu cầu trong nước dự kiến vẫn là động lực tăng trưởng chính, mặc dù tốc độ tăng chậm hơn so với năm ngoái. Chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) bình quân trong năm ước đạt 3,5%, do dự kiến tăng lương công chức, sau đó giảm còn 3,0% trong năm 2024 và 2025 với giả định giá cả năng lượng và thương phẩm vẫn ổn định.

Cân đối ngân sách dự kiến có bội chi ở mức 0,7% GDP trong năm 2023 khi chính sách tài khóa vẫn phần nào hỗ trợ cho nền kinh tế, nhưng Chính phủ sẽ quay lại vị thế tài khóa thận trọng hơn trong năm 2024, phù hợp với chiến lược phát triển ngành tài chính giai đoạn 2021-2030. Tài khoản vãng lai dự kiến sẽ tiếp tục được cải thiện, nhờ xuất khẩu sẽ phục hồi ở mức khiêm tốn, số lượt du khách quốc tế tiếp tục phục hồi, và nguồn kiều hối vẫn đứng vững.

Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn nghèo cho quốc gia thu nhập trung bình thấp) được dự báo giảm từ 3,2% trong năm 2022 xuống còn 3,0% trong năm 2023.

Triển vọng nêu trên còn phụ thuộc vào một số rủi ro đang gia tăng. Tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc có thể suy giảm nhu cầu bên ngoài về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chính sách tiền tệ bị thắt chặt hơn nữa ở các nền kinh tế lớn và phát triển có thể sẽ lại nhen nhóm gây áp lực tỉ giá cho đồng nội tệ, dẫn đến dòng vốn tháo chạy ra ngoài. Nhìn từ trong nước, những rủi ro và nguy cơ dễ tổn thương về tài chính gia tăng đòi hỏi phải theo dõi sát sao và tiếp tục đổi mới.

Báo cáo cũng cho biết tăng trưởng ở các nước đang phát triển ở Đông Á và Thái Bình Dương được dự báo sẽ duy trì ở mức cao là 5% vào năm 2023 nhưng sẽ giảm trong nửa cuối năm và được dự báo còn 4,5% trong năm 2024.

Nguồn: Báo người lao động

Doanh nghiệp sản xuất bao bì gặp khó vì sản xuất công nghiệp đình trệ

Báo cáo về thị trường bao bì Việt Nam của Công ty Cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) công bố hôm 2-10 cho thấy, sản lượng sản xuất bao bì giấy các tháng quý I không tăng so với hồi cuối năm ngoái, trong khi sản lượng tiêu dùng có mức giảm nhẹ.

Trong quý II, sản lượng sản xuất và tiêu dùng bao bì giấy có mức tăng nhẹ, tuy nhiên nhận định chung thì ngành bao bì năm nay vẫn đối mặt nhiều khó khăn khi sản xuất công nghiệp chưa được phục hồi. Biểu hiện rõ ràng nhất ở chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP), tính chung 8 tháng đầu năm, IIP ước tính giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,2%).

Trong khi đó, theo khảo sát của Vietnam Report vào tháng 8, 25,7% doanh nghiệp bao bì có doanh thu giảm so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng bao bì cũng sụt giảm nghiêm trọng, 6 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bao bì (tính trên 2 nhóm HS.3923 và HS.4819) chỉ đạt 1,07 tỷ USD, tương đương 63,1% cùng kỳ năm trước.

Thêm vào đó, các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng gặp phải khó khăn bởi sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ trong ngành. Điều này một phần do cầu tiêu dùng hàng hóa giảm kéo theo lượng cầu bao bì giảm, áp lực giảm chi phí của các nhà sản xuất bao bì càng tăng cao để tạo lợi thế cạnh tranh so với đối thủ.

Cuối cùng, dù lãi suất cho vay của các ngân hàng đã giảm, lạm phát được giữ ổn định, nhưng trước nguyên nhân từ tổng cầu suy yếu, thiếu thanh khoản và tín dụng vẫn cản trở khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp sản xuất bao bì. Khả năng chi trả lãi vay yếu do tình hình tài chính đi xuống, từ đó cũng hạn chế tiếp cận nguồn vốn mới của doanh nghiệp trong tình hình hiện tại.

Hạ lãi suất thực, chứ không chỉ giảm trên văn bản

Chỉ ra nguyên nhân chính khiến dư nợ tín dụng 9 tháng năm 2023 chỉ tăng khoảng 6% là do lãi suất cho vay vẫn còn rất cao so với lợi nhuận của doanh nghiệp, ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) cho rằng, cần phải nghiên cứu để hạ lãi suất thực, chứ không phải chỉ giảm trên văn bản, chính sách.

Từ đầu năm đến nay, lãi suất điều hành đã 4 lần được điều chỉnh giảm, các ngân hàng thương mại cũng liên tục giảm lãi suất cả huy động lẫn cho vay. Theo ông, vì sao dư nợ tín dụng 9 tháng đầu năm chỉ tăng khoảng 6%?

Đúng là mặt bằng lãi suất đã giảm rất mạnh, đã quay trở lại thời kỳ trước đại dịch Covid-19, nhưng vẫn còn rất cao so với lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể đạt được nếu phải vay vốn ngân hàng để kinh doanh.

Lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm do nguyên – nhiên – vật liệu đầu vào, lương công nhân, tiền điện… đều tăng. Đầu vào tăng, nhưng đầu ra, nhất là giá hàng hóa xuất khẩu không tăng, thậm chí còn giảm do phải cạnh tranh với các đối thủ trên thương trường thế giới.

Mặc dù các ngân hàng thương mại đồng loạt giảm lãi suất cho vay, nhưng thử hỏi, có bao nhiêu doanh nghiệp có thể vay được với mức lãi suất bình quân 7 – 8%/năm? Ngay cả vay được với mức lãi suất này, thì so với các nước trong khu vực, doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải vay với lãi suất gấp khoảng 2 lần. Đầu vào tăng, lãi suất rất cao so với các nước trong khu vực, tất yếu sức cạnh tranh của hàng hóa bị giảm, nên không khó lý giải khi dư nợ tín dụng tăng chậm.

Không thể phủ nhận những động thái quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm đưa vốn ra nền kinh tế, đặc biệt là việc ban hành Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, nhưng tại sao vốn ra nền kinh tế vẫn nhỏ giọt, thưa ông?

Thông tư số 02/2023/TT-NHNN được ban hành kịp thời với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp. Thực ra, việc cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ không phải là chính sách mới, vì NHNN đã thực hiện một số lần, song hiệu quả dư nợ tín dụng không tăng như mong đợi, ngược lại, áp lực nợ xấu tăng lên ngân hàng rất lớn.

Để tránh “vết xe đổ”, song hành với cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, các ngân hàng thương mại vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro tăng, thì lãi suất cho vay khó có thể giảm như mong đợi của doanh nghiệp. Hơn nữa, mặt bằng lãi suất huy động khó giảm mạnh do thực hiện chính sách “lãi suất thực dương”.

Nhưng thưa ông, không có bất cứ văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo nào về “lãi suất thực dương”, quy định lãi suất huy động phải cao hơn lạm phát?

Đúng là chính sách “lãi suất thực dương” không được quy định trong bất cứ văn bản quy phạm pháp luật, văn bản điều hành chính sách tiền tệ nào.

Tôi nghĩ rằng, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chính sách lãi suất thực dương nhằm bảo đảm tính thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng, bởi nếu lãi suất huy động thấp hơn lạm phát, thì người dân sẽ không gửi tiền tiết kiệm, khiến ngân hàng không có tiền để cho vay. Chính sách lãi suất thực dương chắc cũng hàm ý bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tiết kiệm, vì tuyệt đại đa số người gửi tiền tiết kiệm là người có thu nhập không cao.

Như vậy, chính sách “lãi suất thực dương” có lý do để tồn tại, thưa ông?

Tôi không nghĩ như vậy. Vì hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa bao giờ bị đe dọa bởi tính thanh khoản, mà lúc nào nguồn vốn cũng dồi dào, kể cả những năm dư nợ tín dụng tăng 18 – 20%. Nhiều nước trên thế giới áp dụng lãi suất tiền gửi 0%, thậm chí người gửi tiền tiết kiệm còn phải trả phí cho ngân hàng, nhưng hệ thống ngân hàng của những nước này chưa bao giờ mất tính thanh khoản. Vì vậy, không thể lấy lý do vì bảo đảm tính thanh khoản nên phải để lãi suất thực dương.

Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) bình quân những năm gần đây của Việt Nam rất thấp (năm 2020 tăng 3,23%; năm 2021 tăng 1,84%; năm 2022 tăng 3,15%; 8 tháng năm 2023 tăng tăng 3,1%), nhưng chưa bao giờ lãi suất huy động tiền gửi thời hạn 6 tháng trở lên dưới 5%. Lãi suất huy động cao, thì lãi suất cho vay cao là đương nhiên, vì vậy, cần xem lại quan điểm “lãi suất thực dương”.

Theo ông, còn nguyên nhân nào khiến lãi suất cho vay vẫn cao hay không?

Ngoài nguyên nhân lãi suất huy động cao, thì còn vì hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại khá nhiều rủi ro. Rủi ro cao, thì lãi suất vay ngân hàng cao. Ngành nghề, lĩnh vực, doanh nghiệp nào có độ rủi ro càng cao, thì phải vay với lãi suất càng cao. Rủi ro cao, thì tỷ lệ nợ xấu cao, ngân hàng buộc phải trích lập dự phòng rủi ro khiến mặt bằng lãi suất cho vay của Việt Nam nhìn chung cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.

Không ai nghĩ rằng Việt Nam lại đang xuất khẩu vốn (đầu tư vào trái phiếu trên thị trường quốc tế, trong đó có cả trái phiếu Kho bạc Hoa Kỳ). Việt Nam xuất khẩu vốn vì ngân hàng huy động ngoại tệ với lãi suất 0%, trong khi đối tượng được vay ngoại tệ rất hạn chế, khiến thừa ngoại tệ, nên đem đi đầu tư vào trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế.

Tôi ủng hộ quan điểm phải xóa bỏ tình trạng đô-la hóa nền kinh tế. Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam (VND), nhưng phải có lộ trình. Tức là xem lại chính sách lãi suất huy động ngoại tệ 0%, thay vào đó, trả cho người gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ một mức lãi suất hợp lý, đồng thời nới rộng đối tượng được vay ngoại tệ. Khi đối tượng được vay ngoại tệ được mở rộng sẽ giảm áp lực vay VND, tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay VND, vì cầu vay nội tệ giảm.

Dư nợ tín dụng hiện tại khoảng 12,7 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất cho vay 1%, thì giảm gánh nặng cho nền kinh tế khoảng 127.000 tỷ đồng. Đây là số tiền rất lớn, cần phải nghiên cứu để hạ lãi suất thực, chứ không phải chỉ giảm trên văn bản, chính sách trong khi doanh nghiệp vẫn phải vay với lãi suất trên 10%/năm.

Nguồn: Báo đầu tư

Thống đốc NHNN nói gì về diễn biến thị trường tiền tệ thời gian qua?

Phát biểu tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2023, Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho rằng, trong bối cảnh hết sức khó khăn, tăng trưởng kinh tế tăng cao dần qua các quý, trong khi lạm phát bình quân ở mức 3,16%. Đây là những kết quả đáng ghi nhận khi so sánh với các nền kinh tế trên thế giới và khu vực. Diễn biến này cho thấy các giải pháp điều hành thời gian qua của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là đúng và trúng.

Về diễn biến thị trường tiền tệ và điều hành của NHNN, Thống đốc nhấn mạnh điều hành CSTT trong điều kiện khó khăn, thách thức do kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Các NHTW trên thế giới tiếp tục duy trì CSTT thắt chặt, duy trì lãi suất cao. Chỉ số USD tăng cao trở lại 106, mức cao nhất từ đầu năm tới nay.

Trong nước, dù lạm phát bình quân 9 tháng ở mức 3,16% nhưng đang tăng lên qua các tháng (tháng 7 tăng 0,45%; tháng 8 tăng 0,88%; tháng 9 tăng 1,08%), lạm phát cơ bản giảm chậm, bình quân 9 tháng đầu năm tăng 4,49%; nhiều khả năng kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đề ra.

Tuy nhiên trong điều hành kinh tế vĩ mô, theo Thống đốc cần có cái nhìn xuyên suốt, không chỉ nhìn vào mục tiêu một năm, mà cần nhìn vào xu hướng, những rủi ro trong thời gian tới để chủ động điều hành, tránh để lạm phát bùng lên, mất thời gian dài để đưa lạm phát giảm trở lại, gây hệ lụy tiêu cực đối với nền kinh tế.

Thống đốc cho biết, trong thời gian qua, NHNN đã bám rất sát tình hình, chủ động điều hành với liều lượng và thời điểm hợp lý. Trước yêu cầu giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, trong khi đó gần đây chỉ số USD tăng trở lại mức 106 nên có thời điểm tỷ giá đã tăng 3,7% so với đầu năm.

Tuy nhiên, với việc điều tiết tiền tệ thông qua các công cụ, giải pháp thị trường tiền tệ, tỷ giá hiện nay còn tăng 3% so với đầu năm. Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục theo dõi sát tình hình, diễn biến để chủ động điều hành phù hợp.

Về tín dụng, đến ngày 21/9 tín dụng tăng 5,91%, với tín hiệu phục hồi của sản xuất, kinh doanh, và thường những tháng cuối năm tín dụng tăng cao, tín dụng sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới.

“Nếu kỳ tháng 10 này, Quốc hội phê chuẩn Luật kinh doanh bất động sản và Luật Nhà ở, theo đó cho phép doanh nghiệp được mua nhà ở cho công nhân thì khả năng nhu cầu vay vốn từ gói này sẽ tăng lên”, Thống đốc bày tỏ kỳ vọng và cho biết thêm, đối với gói tín dụng thủy sản 15.000 tỷ đồng, triển khai từ giữa tháng 7 đến nay đã đạt khoảng 5.500 tỷ đồng, chiếm 1/3 giá trị gói tín dụng. Điều này cho thấy việc triển khai của ngân hàng khá tích cực.

Đối với các nhiệm vụ khác, trong đó có thực hiện đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, hoàn thiện các đề án tái cơ cấu ngân hàng yếu kém được NHNN tiếp tục chỉ đạo thực hiện theo đúng chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Tại Hội nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng nêu một số kiến nghị để tăng khả năng hấp thụ vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.

Cụ thể, lạm phát có xu hướng tăng liên tục trong 3 tháng qua, cùng với rủi ro về giá dầu, giá lương thực, tăng lương trong năm 2024 là những yếu tố cần được theo dõi sát, đánh giá kỹ lưỡng, đặc biệt là chính sách quản lý giá (tính toán mức độ, thời điểm phù hợp, lưu ý tác động vòng 2).

Do vậy, cần có các giải pháp chính sách tổng thể, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô một cách bền vững, xuyên suốt.

Cũng theo Thống đốc, hiện nay tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế vẫn còn thấp, có nhiều nguyên nhân đã được chỉ ra ở nhiều hội nghị do lãnh đạo Chính phủ chủ trì như đơn hàng giảm, doanh nghiệp không có đầu ra, cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại quốc tế, khai thác cầu nội địa; vướng mắc thủ tục pháp lý về đầu tư, đặc biệt là các dự án bất động sản, cần tập trung tháo gỡ.

Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện chiếm tới khoảng 95% tổng số doanh nghiệp của cả nước, trong điều kiện bình thường cũng khó khăn về năng lực tài chính, nay chịu tác động của dịch Covid 19 lại càng khó khăn hơn.

“Các ngân hàng dù rất tạo điều kiện nhưng tiền cho vay của hệ thống các TCTD là tiền gửi của người dân, nên đòi hỏi đảm bảo cho vay có khả năng thu hồi nợ theo quy định của Luật TCTD”, Thống đốc bày tỏ và đề xuất để cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có các giải pháp đồng bộ như tăng cường bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp.

Mạnh Đức

Nhịp sống Thị trường

Bản tin tổng hợp PPIA từ 25/9-29/9 đến 29/9/2023

Giấy Cửu Long sẽ khởi động công suất P&B 1,55 triệu tấn/năm tại Trung Quốc trong quý IV, nhiều dự án bị trì hoãn hoặc hủy bỏ

Giấy Cửu Long có kế hoạch khởi động tổng công suất 1,55 triệu tấn/năm giấy và bìa (P&B) tại một nhà máy mới ở thành phố Bắc Hải, khu tự trị Quảng Tây, trong quý IV.

Các dây chuyền sản xuất mới sẽ bao gồm một máy xoe kraftliner công suất 800.000 tấn/năm, một máy xeo giấy cao cấp không tráng phấn công suất 550.000 tấn/năm và một dây chuyền bột giấy cơ học 200.000 tấn/năm.

Nhưng nhiều dự án giấy và bột giấy đã bị công ty khổng lồ này dời thời gian thực hiện hoặc hủy bỏ do thay đổi của thị trường.

Tại cơ sở Bắc Hải, việc vận hành máy xeo giấy tráng phấn màu ngà công suất 1,2 triệu tấn/năm và máy xeo giấy kraft làm túi 200.000 tấn/năm sẽ lần lượt được hoãn lại sang quý III năm 2024 và quý IV năm 2025. Trước đây, theo kế hoạch hai máy sẽ được đưa vào hoạt động vào quý I và quý II năm 2024.

Ngoài ra, dây chuyền bột cơ học 600.000 tấn/năm và dây chuyền bột hóa học 1,1 triệu tấn/năm tại nhà máy mới sẽ bị trì hoãn nửa năm đến quý II năm 2024, theo kế hoạch mới nhất của Giấy Cửu Long.

Công ty cũng đã quyết định hủy bỏ một máy xeo kraftliner công suất 300.000 tấn/năm và một máy sản xuất giấy làm lớp phẳng mặt trắng công suất 450.000 tấn/năm tại nhà máy Bắc Hải.

Ngoài những thay đổi tại nhà máy mới ở Bắc Hải, Giấy Cửu Long cũng đã triển khai dự án bột giấy tái chế công suất 600.000 tấn/năm tại nhà máy Selangor ở Malaysia. Nhà máy hiện có một máy xeo testliner công suất 600.000 tấn/năm và một máy xeo giấy làm lớp sóng công suất 300.000 tấn/năm, cả hai đều đã đi vào hoạt động vào đầu năm nay.

Hai dây chuyền sản xuất bột từ gỗ được lên kế hoạch ở Đông Nam Á cũng bị trì hoãn. Việc khởi động dây chuyền 100.000 tấn/năm ở Việt Nam và dây chuyền 210.000 tấn/năm ở Malaysia lần lượt bị hoãn sang quý này và quý I năm 2024.

Các dự án mở rộng khác: Tuy nhiên, khoảng 1,75 triệu tấn công suất bột từ gỗ tại 8 nhà máy của Giấy Cửu Long ở Trung Quốc đã đi vào hoạt động như dự kiến trong nửa đầu năm 2023.

Công ty cũng đã khởi động một dây chuyền bột giấy hóa học công suất 320.000 tấn/năm và một máy xeo kraftliner từ bột nguyên chất công suất 650.000 tấn/năm tại nhà máy Thẩm Dương ở tỉnh Liêu Ninh trong nửa đầu năm nay.

Tại tỉnh Hồ Bắc, Giấy Cửu Long đang lắp đặt một máy xeo kraftliner công suất 600.000 tấn/năm và một máy xeo giấy làm lớp sóng 600.000 tấn tại nhà máy Kinh Châu và dự kiến chúng sẽ đi vào hoạt động vào quý IV năm 2024.

Báo cáo thâm hụt tài chính: Giấy Cửu Long báo lỗ 2,38 tỷ RMB (325,5 triệu USD) cho năm tài chính kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2023.

Công ty giải thích rằng do sự phục hồi kinh tế chậm ở Trung Quốc, cả nhu cầu và giá giấy làm bao bì đều thấp. Trong khi đó, nhiều yếu tố như lạm phát toàn cầu, biến động giá năng lượng và việc Mỹ tăng lãi suất đều ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Công ty.

Thời gian ngừng hoạt động tại nhà máy Đông Quan: Năm máy xeo giấy làm lớp phẳng tái chế tại nhà máy ở  Đông Quan, tỉnh Quảng Đông sẽ ngừng hoạt động từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 6 tháng 10, khiến sản lượng giảm khoảng 53.000 tấn. Năm máy đó là PM 2, PM 3, PM 12, PM 19 và PM 43.

Nhà máy Đông Quan có 16 máy xeo với tổng công suất khoảng 5,9 triệu tấn giấy và bìa và 11 máy xeo còn lại không nằm trong kế hoạch ngừng hoạt động.

 

Giá OCC của Mỹ và Châu Âu tăng 5-15 USD/tấn ở Đông Nam Á và Đài Loan

Các công ty thu mua lớn ở nước ngoài của Trung Quốc đã tiếp tục đẩy mạnh tìm nguồn cung ứng loại giấy thu hồi màu nâu ở Mỹ và Châu Âu để giao hàng đến Châu Á, đồng thời tìm cách tăng giá bán hàng nhập khẩu của họ ở Đông Nam Á (SEA) và Đài Loan.

Các nguồn tin cho biết những khách hàng này đã trả nhiều tiền nhất để có được khối lượng lớn thùng sóng cũ (OCC) có nguồn gốc từ Mỹ và Châu Âu và hoạt động mua hàng của họ đã được tăng cường trong hai tuần qua.

Các đầu mối cho rằng một công ty có nhiều vốn đã trả số tiền tương đương với SEA-CIF là 200 USD/tấn đối với DS OCC 12 của Hoa Kỳ và 150 USD/tấn đối với OCC 95/5 của Châu Âu. Bị buộc phải tăng chi phí tìm nguồn cung ứng ở Mỹ và Châu Âu, các nhà cung cấp khác, đặc biệt là những người tham gia giao dịch giáp lưng, không có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng giá cho các loại đó trong khu vực.

Người bán chào giá DS OCC 12 của Mỹ ở mức 205-210 USD/tấn và OCC 95/5 của Châu Âu ở mức 150-155 USD/tấn.

Người mua, đặc biệt là người dùng cuối, đã từ chối.

Nhưng các nhà sản xuất bột giấy tái chế gốc Trung Quốc buộc phải chấp nhận giá tăng, đặc biệt đối với DS OCC 12 của Hoa Kỳ.

Một số trong đó, cùng với người dùng cuối, đã ngừng mua loại cao cấp của Mỹ khi giá vượt quá 200 USD/tấn.

Một số nhà máy sản xuất bột giấy tái chế đã trả tới 205 USD/tấn để có được loại cao cấp này cung cấp cho dây chuyền sản xuất của họ ở Malaysia và Thái Lan và vận chuyển sản phẩm đầu ra sang Trung Quốc để sản xuất thành phẩm tại các nhà máy sản xuất giấy của họ ở đó.

Họ thích sử dụng loại OCC cao cấp của Hoa Kỳ để sản xuất bột giấy tái chế do lo ngại về chất lượng.

Người dùng cuối cắt giảm khối lượng mua: Đối mặt với giá nhập khẩu OCC ngày càng tăng, các nhà máy sản xuất giấy lớn ở Đông Nam Á và Đài Loan đã cắt giảm lượng hàng nhập khẩu và chuyển sang các lựa chọn rẻ hơn, chẳng hạn như OCC thu gom tại địa phương.

Các nhà sản xuất cho biết nhiều nhà máy vừa và nhỏ ở quốc gia của họ đã giảm nhịp độ sản xuất giấy làm bao bì hoặc thậm chí ngừng sản xuất hoàn toàn khi nhu cầu thấp, dẫn đến sự gia tăng nguồn cung thu gom OCC trong nước. Họ hoài nghi về tính bền vững của làn sóng mua hàng do các công ty thu mua ở nước ngoài của Trung Quốc thúc đẩy. Một trong số họ tin rằng việc mua bán sẽ kết thúc trước cuối tháng 10.

Nguồn tin giải thích: “OCC có nguồn gốc từ Mỹ và Châu Âu dự kiến sẽ được chuyển đến Đông Nam Á trong hai tháng tới để sản xuất bột giấy tái chế và giấy làm bao bì tại các nhà máy thuộc sở hữu của Trung Quốc trong khu vực”. Ông cho biết thêm: “Giấy sau đó sẽ được chuyển trở lại Trung Quốc, để sản xuất thành phẩm hoặc phân phối vào mạng lưới bán hàng trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài vào tháng 2 năm sau”.

Những người khác lại nói ngược lại, cho rằng việc mua có thể kéo dài hơn thời điểm đó.

Một đầu mối nhấn mạnh rằng một nhà sản xuất lớn gốc Trung Quốc đang trong quá trình khởi động các máy xeo giấy cỡ lớn tại các nhà máy của họ ở Trung Quốc và Đông Nam Á, với công suất lên tới hơn một triệu tấn/năm.

Nguồn tin cho biết: “Điều đó giải thích tại sao nhà sản xuất tiếp tục trả thêm tiền để có được khối lượng lớn OCC Mỹ và Châu Âu, vì họ cần nguyên liệu để cung cấp cho các máy mới của mình”.

Trong khi đó, các nhà sản xuất hàng đầu Trung Quốc đang tìm cách tăng giá 50-100 RMB/tấn (7-14 USD/tấn) cho giấy tái chế kể từ tháng 8.

“Nhiều người trong ngành tin rằng liệu mức tăng theo kế hoạch có thể được thực hiện hay không là một dấu hiệu thể hiện thị trường bao bì Trung Quốc. Câu trả lời dự kiến sẽ được bộc lộ sau Tuần lễ Vàng của Trung Quốc vào ngày 1-7 tháng 10”, một nhà cung cấp lưu ý.

“Nếu kết quả đáng thất vọng, nó sẽ chứng minh sự sụt giảm về nhu cầu của bao bì hiện tại có thể kéo dài đến quý IV, và cuộc mua bán OCC của Hoa Kỳ và Châu Âu sau đó sẽ dừng lại.”

Giá OCC của Hoa Kỳ tăng: Với sự thúc đẩy của người bán, DS OCC 12 của Mỹ đã tăng 5-10 USD/tấn trong hai tuần qua, đạt mức 195-205 USD/tấn ở Đông Nam Á và Đài Loan. Giá OCC 11 của Mỹ được định giá ở mức 190-195 USD/tấn, tăng 10 USD/tấn.

Giá OCC 95/5 Châu Âu ở mức 145-150 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn.

Tuy nhiên, OCC Nhật Bản ổn định ở mức 145-150 USD/tấn, ngang bằng với loại OCC cao cấp của Châu Âu.

Các nhà sản xuất lớn đang xem xét việc tăng giá thành phẩm trong khu vực để giải quyết chi phí OCC ngày càng tăng.

Một nhà sản xuất Indonesia cho biết các công ty đặt mục tiêu tăng giá 5 USD/tấn mỗi tháng trong quý IV tại Indonesia và các nhà sản xuất ở các thị trường khác trong khu vực được cho là đang xem xét các động thái tương tự.

“Điều quan trọng là Trung Quốc. Sự phục hồi nhu cầu ở Trung Quốc sẽ chấm dứt tình trạng suy thoái bao bì ở Đông Nam Á”, đầu mối nhấn mạnh.

 

Các nhà sản xuất giấy tại Trung Quốc tiếp tục tăng giá giấy cao cấp, giấy làm bao bì trong tháng 9

Giá giấy cao cấp và giấy làm bao bì ở Trung Quốc tiếp tục tăng trong tháng 9 do các nhà sản xuất theo đuổi việc tăng giá trong bối cảnh nhu cầu theo mùa tăng.

Tháng 9 là thời điểm bắt đầu mùa cao điểm của ngành bao bì ở Trung Quốc và nhu cầu dự kiến sẽ duy trì ở mức cao cho đến cuối tháng 12. Sau khi giá giấy làm thùng sóng tái chế ổn định và tăng nhẹ trong tháng 8, các nhà sản xuất giấy đã triển khai nhiều đợt tăng giá, thường là 50 RMB/tấn mỗi lần vào tháng 9. Hầu hết các đợt tăng giá đều dành cho các sản phẩm cấp thấp, cụ thể là giấy làm lớp sóng và testliner.

Tại miền đông Trung Quốc, tính đến thứ Tư ngày 27 tháng 9, giá trung bình cho giấy làm lớp sóng cường độ cao đạt 3.288 RMB/tấn, tăng 130 RMB/tấn so với cuối tháng 8.

Giá trung bình cho testliner đã tăng từ 3.260 RMB/tấn một tháng trước lên 3.385 RMB/tấn trong tuần này.

Giá trung bình của giấy làm lớp phẳng mặt kraft tăng 10 RMB/tấn lên 4.078 RMB/tấn.

Giá giấy làm lớp phẳng mặt trắng trung bình tăng từ 5.550 RMB/tấn lên 5.575 RMB/tấn.

Điều đáng chú ý là một số nhà sản xuất giấy hàng đầu, bao gồm Giấy Cửu Long, đã miễn phí thanh toán bằng chấp phiếu ngân hàng vào đầu tháng 9, tương đương với mức giảm giá 60 RMB/tấn. Nếu không thì mức tăng giá của các loại giấy tái chế ở trên sẽ đáng kể hơn.

Sự tăng giá không nhiều liên tục, cùng với nhu cầu bổ sung giấy dự trữ của các nhà máy làm bao bì trong bối cảnh nhu cầu theo mùa cao đối với vật liệu đóng gói dạng sóng, đã thúc đẩy doanh số bán hàng của các nhà máy sản xuất giấy và giảm hàng tồn kho của họ.

Tuy nhiên, kỳ nghỉ lễ kéo dài 8 ngày, từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 6 tháng 10 nhân dịp Tết Trung thu và Quốc khánh Trung Quốc, chắc chắn sẽ làm gián đoạn hoạt động bán hàng và vận chuyển, đã gây ra lo ngại về sự gia tăng đáng kể lượng giấy tồn kho tại các nhà máy.

Để tránh tình trạng giấy lại chất đống tại kho của họ, một số nhà sản xuất giấy hàng đầu, bao gồm cả Giáy Cửu Long, đã sắp xếp kế hoạch ngừng hoạt động xung quanh kỳ nghỉ lễ.

Giấy Cửu Long cũng đã công bố vào thứ Hai ngày 25 tháng 9 về ý định tăng giá cho toàn bộ các loại giấy làm bao bì của mình thêm 50 RMB/tấn kể từ ngày 7 tháng 10, đây được coi là động lực khuyến khích người mua ở hạ nguồn đặt hàng nhiều hơn trước kỳ nghỉ lễ dài.

“Các động thái này cho thấy quyết tâm của các nhà sản xuất giấy trong việc duy trì đà tăng giá giấy nhưng cũng cho thấy các yếu tố cơ bản mong manh đến mức nào. Nguy cơ cung vượt cầu trên thị trường rõ ràng đến mức họ [các nhà sản xuất giấy] phải hạn chế sản xuất vào cao điểm của mùa cao điểm truyền thống để tránh hoặc trì hoãn thời kỳ suy thoái,” một đầu mối ở nhà máy làm bao bì cho biết.

Giá KLB nhập khẩu ổn định: Giá giấy kraftliner từ bột nguyên chất (KLB) đứng ở mức 450-525 USD/tấn cho đơn hàng tháng 9, không thay đổi so với tháng 8.

Giá KLB nhập khẩu từ Mỹ, Châu Âu và Úc giảm trong khoảng 505-525 USD/tấn trong tháng 9, ổn định so với tháng trước. Xem xét lịch sử giá, các đầu mối thương mại cho rằng giá có thể đã chạm đáy nhưng thiếu động lực phục hồi trong ngắn hạn.

Giá KLB Nga vẫn ở mức thấp hơn, có giá khoảng 450-480 USD/tấn.

Chính phủ Nga ngày 21 tháng 9 thông báo sẽ áp dụng thuế xuất khẩu linh hoạt đối với nhiều sản phẩm khác nhau, bao gồm cả giấy và bìa (P&B), từ ngày 1 tháng 10 đến hết năm 2024 để bảo vệ thị trường nội địa khỏi việc tăng giá không chính đáng.

Thuế suất sẽ được gắn với tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la Mỹ và đồng rúp của Nga do ngân hàng trung ương Nga quy định. Nếu đồng rúp tăng giá vượt mức 80 ăn 1 đô la, tỷ giá sẽ bằng 0. Nếu không, nó sẽ dao động từ 4% đến 7%, đạt mức tối đa nếu đồng tiền Nga yếu hơn 95 rúp mỗi đô la như hiện nay. Theo Ngân hàng Nga, đồng rúp ở mức 96,5 so với đô la Mỹ vào thứ Năm ngày 28 tháng 9.

Kỳ vọng thuế xuất khẩu 7% sẽ được áp dụng đối với các sản phẩm của Nga, bao gồm cả KLB, từ ngày 1 tháng 10 đã sớm làm rung chuyển thị trường Trung Quốc, điểm đến chính của giấy xuất khẩu của Nga.

Mặc dù hầu hết các nhà cung cấp Nga chưa thông báo cho khách hàng về mức độ ảnh hưởng của thuế đối với giá bán của họ, nhưng các thương nhân Trung Quốc kỳ vọng rằng các nhà cung cấp sẽ cố gắng chuyển ít nhất một phần chi phí tăng thêm lên họ hoặc lấy thuế này làm lý do biện minh cho việc tăng giá đột xuất.

Tập đoàn Ilim của Nga tiếp tục cung cấp sản phẩm chất lượng cao từ máy xeo kraftliner mới có công suất 600.000 tấn/năm tại nhà máy Ust-Ilimsk ở Irkutsk Oblast ở phía đông nam Siberia cho các thương nhân được lựa chọn cẩn thận ở Trung Quốc vào tháng 9. Việc sản xuất thương mại tổ máy này dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 10.

Giá bìa tăng: Tương tự như biến động giá của giấy làm thùng sóng tái chế, các nhà sản xuất đã nhiều lần tăng giá bìa tái chế.

Tính đến tuần này, giá trung bình cho duplex tráng phấn lưng xám loại cao cấp là 4.175 RMB/tấn, tăng 140 RMB/tấn so với một tháng trước. Giá trung bình của duplex tráng phấn lưng xám chất lượng thường đã tăng từ 3.523 RMB/tấn vào cuối tháng 8 lên 3.600 RMB/tấn trong tuần này.

Trong lĩnh vực bìa làm từ sợi nguyên chất, các nhà sản xuất bìa tráng phấn màu ngà tiếp tục thúc đẩy việc tăng giá đối với loại thông thường, nâng giá trung bình của loại này lên 4.967 RMB/tấn trong tuần này, tăng 250 RMB/tấn so với một tháng trước.

Giá trung bình cho bìa tráng phấn màu ngà loại cao cấp ổn định ở mức 7.100 RMB/tấn trong tháng 9.

Biểu Tượng Châu Á đang chuẩn bị khởi động sản xuất thử nghiệm máy xeo bìa từ bột nguyên chất mới có công suất 1 triệu tấn/năm tại nhà máy Như Cao ở tỉnh Giang Tô vào tháng 10. Phần lớn sản phẩm của công ty sẽ là bìa tráng phấn màu ngà, dự kiến sẽ tung ra thị trường trong hai tháng cuối năm nay.

Giá giấy cao cấp tăng vọt: Do giá bột giấy đang tăng và nhu cầu giấy theo mùa sắp tới cho các trường học, giá giấy cao cấp tăng nhanh trong tháng 9 sau mức tăng trong tháng 8.

Ở phía đông Trung Quốc, giá trung bình giấy cao cấp không tráng phủ (UFP) được làm từ 100% bột giấy hóa học đã tăng từ 6.283 RMB/tấn vào cuối tháng 8 lên 6.417 RMB/tấn trong tuần này.

UFP sản xuất từ hỗn hợp bột giấy hóa học và cơ học có giá trung bình tăng 320 RMB/tấn lên 5.970 RMB/tấn.

Đối với giấy cao cấp tráng phấn (CFP), cả loại cao cấp và loại thông thường đều có mức tăng vọt 300 RMB/tấn trong tháng 9, với giá trung bình lần lượt là 5.933 RMB/tấn và 5.650 RMB/tấn.

Giá giấy xuất bản giảm: Giá giấy in báo sản xuất trong nước ở Trung Quốc đã giảm từ 5.900-6.000 RMB/tấn trong tháng 8 xuống còn 5.700-5.900 RMB/tấn trong tháng 9 khi hợp đồng mới nhất với các tờ báo quốc gia hàng đầu trong nước đã được ấn định ở mức là 5.700 RMB/tấn.

Sự sụt giảm này một phần là do chênh lệch lớn giữa giá giấy in báo trong nước và giá các sản phẩm nhập khẩu.

Các thương gia cho biết các giấy chào hàng giấy in báo của Nga được chào ở mức khoảng 4.300-4.400 RMB/tấn (chở tới nơi, đã bao gồm thuế) trong tháng 8, tương đương khoảng 485 USD/tấn CIF. Các chào hàng từ các nhà cung cấp không phải của Nga, chủ yếu là các nhà cung cấp Canada, ở mức khoảng 520 USD/tấn.

Các nhà kinh doanh giấy in báo Trung Quốc đang theo dõi chặt chẽ thuế xuất khẩu sắp tới đối với giấy Nga, bởi vì Nga là quốc gia cung cấp giấy in báo nhập khẩu chính của Trung Quốc.

Một đầu mối ở Nga cho biết họ sẽ gánh chịu mức thuế 7% và “đấu tranh giành giá ở Trung Quốc và Ấn Độ”, những thị trường xuất khẩu lớn nhất của họ, trong vài tháng tới để bù đắp một phần các chi phí tăng thêm.

Giá giấy tráng nhẹ (LWC) sản xuất trong nước đã giảm xuống còn 6.900-7.100 RMB/tấn trong tháng 9, giảm 200 RMB/tấn trong tháng này.

Giá của LWC trước đây đặc biệt ổn định so với các loại giấy in và viết khác do sản lượng rất hạn chế ở Trung Quốc.

Sự sụt giảm gần đây phần lớn là do giá LWC nhập khẩu giảm.

Các thương nhân Trung Quốc cho biết trong tháng này họ đã nhận được chào hàng LWC của Nhật Bản với giá khoảng 700 USD/tấn CIF, thấp hơn gần 100 USD/tấn so với các tháng trước.

 

Giá bột giấy quý 3 của Hàn Quốc phục hồi; giá giấy cao cấp, bìa giảm

Giá bột gỗ trên thị trường ở Hàn Quốc ổn định và cuối cùng đã phục hồi nhẹ trong quý III năm 2023 sau khi rơi tự do liên tục trong quý II.

Mặt khác, giá giấy cao cấp và giấy làm thùng sóng tiếp tục giảm.

Từ tháng 3 đến tháng 5, giá các loại bột kraft gỗ mềm tẩy trắng (BSK) giảm luỹ kế ở 245-265 USD/tấn. Sự sụt giảm mạnh đã dừng lại vào tháng 6 trong bối cảnh giá niêm yết của BSK miền Bắc (NBSK) ổn định ở mức 835 USD/tấn, giá bột gỗ thông radiata ở mức 800 USD/tấn và giá bột gỗ thông miền Nam ở mức 790 USD/tấn.

Tuy nhiên, nhu cầu yếu và nguồn cung BSK giao ngay giá thấp dồi dào của Tây Âu vẫn gây áp lực giảm giá. Giá niêm yết của bột gỗ thông radiata giảm 25 USD/tấn xuống còn 775 USD/tấn, trong khi giá bột gỗ thông miền Nam giảm cùng mức xuống còn 765 USD/tấn trong tháng 7.

Trong khi đó, các nhà cung cấp NBSK của Canada vẫn giữ giá niêm yết ở mức 835 USD/tấn một phần vì cuộc đình công kéo dài 13 ngày bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 tại các cảng của British Columbia đã gây ra tình trạng tồn đọng hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng sẵn có.

Giá niêm yết NBSK tiếp tục ổn định ở mức 835 USD/tấn trong tháng 8. Các nhà cung cấp bột gỗ thông Radiata và bột gỗ thông miền Nam muốn tăng giá 15 USD/tấn, nâng giá niêm yết thông ratiata lên 790 USD/tấn và thông miền Nam lên 780 USD/tấn.

Tương tự như xu hướng ở thị trường lân cận Trung Quốc, giá bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK) ở Hàn Quốc đã chạm đáy vào tháng 5 khi mức giá niêm yết được ấn định ở mức 570 USD/tấn, và sau đó tăng mạnh trong những tháng tiếp theo.

Các nhà cung cấp Nam Mỹ và Indonesia đã nỗ lực tăng giá 40 USD/tấn trong tháng 6, đưa giá niêm yết của BHK lên 610 USD tại thị trường Hàn Quốc. Mức giá này đã tăng thêm 15 USD/tấn lên 625 USD/tấn trong tháng 7, tiếp theo là mức tăng khác từ 15 USD/tấn lên 640 USD/tấn trong tháng 8.

Các nhà cung cấp BHK đang theo đuổi một đợt tăng giá mới, thường là 20 USD/tấn, vào tháng 9, bất chấp sự phản đối ngày càng tăng của người mua đối với mức tăng liên tiếp trong bối cảnh thị trường giấy trì trệ kéo dài ở Hàn Quốc.

Theo số liệu từ Hiệp hội Giấy Hàn Quốc (KPA), tổng sản lượng giấy tại Hàn Quốc là 2,06 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2023, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm 2022.

Tiêu thụ giấy trong nước giảm 13,8% so với cùng kỳ xuống còn 1,30 triệu tấn.

Đã có lời kêu gọi mạnh mẽ từ người mua về việc cắt giảm nhiều hơn đối với giá bột giấy hóa-nhiệt-cơ tẩy trắng (BCTMP) vào tháng 5 khi giá niêm yết 670 USD/tấn đối với loại này cao hơn một cách đặc biệt 100 USD/tấn so với bột giấy BHK.

Khoảng cách này đã thu hẹp đáng kể trong tháng 6 nhờ giá BHK tăng vọt 40 USD/tấn, giúp giữ giá BCTMP ổn định ở mức 670 USD/tấn trong tháng đó.

Giá niêm yết BCTMP sau đó đã giảm xuống còn 650 USD/tấn trong tháng 7, nhưng mức giảm này nhanh chóng được bù đắp bằng mức tăng 20 USD/tấn trong tháng 8, đưa mức giá trở lại 670 USD/tấn.

Nhu cầu đặc biệt thấp đối với các loại giấy làm thùng sóng dẫn đến thời gian ngừng hoạt động dài hơn bình thường tại các nhà máy sản xuất ở Hàn Quốc trong thời gian tạm lắng vào mùa hè vào tháng 7 và tháng 8, điều này làm giảm nhu cầu bột kraft gỗ mềm không tẩy trắng (USK).

Bất chấp nhu cầu thấp, giá bột kraft gỗ mềm chưa tẩy trắng (USK) vẫn giữ ổn định ở mức 615 USD/tấn trong tháng 6, không thay đổi so với tháng 5 và sau đó tăng lên 635 USD/tấn trong tháng 7 và tháng 8.

Giá giấy làm thùng sóng giảm: Theo KPA, sản lượng giấy làm thùng sóng ở Hàn Quốc đạt tổng cộng 3,15 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2023, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2022. Tiêu thụ nội địa các loại giấy làm thùng sóng đạt 2,86 triệu tấn, giảm 5,1%, do xuất khẩu hàng hóa thấp dẫn đến nhu cầu đóng gói thấp.

Xuất khẩu của cả nước trong 8 tháng đầu năm 2023 đạt 410 tỷ USD, giảm 12,4% so với cùng kỳ năm 2022.

Sau đợt giảm 10.000 Won (7,38 USD)/tấn trong tháng 5, giá các loại giấy làm thùng sóng tại thị trường Hàn Quốc lại giảm thêm 10.000 Won/tấn trong tháng 8.

Giá giấy in báo tăng: Vào tháng 4, các nhà sản xuất giấy in báo Hàn Quốc đã thông báo tăng giá 10%, tương đương 70.000-80.000 Won/tấn, cho khách hàng trong nước, với lý do khó khăn trong việc duy trì nguồn cung ổn định trong bối cảnh chi phí cao và nhu cầu giảm.

Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ khách hàng, việc tăng giá đã được thực hiện vào cuối tháng 6, nâng giá giấy in báo trong nước lên 70.000 Won/tấn.

Nhưng giá cao hơn đã đẩy nhanh tốc độ giảm nhu cầu giấy in báo.

Dữ liệu của KPA cho thấy tiêu thụ giấy in báo sản xuất trong nước đạt tổng cộng khoảng 200.000 tấn trong 7 tháng đầu năm 2023, giảm 8,5% so với năm trước.

Sự suy giảm này dự kiến sẽ còn tăng trong những tháng còn lại của năm nay.

Theo KPA, khối lượng giấy in báo xuất khẩu của Hàn Quốc vẫn ở mức cao, đạt tổng cộng 75.000 tấn trong 7 tháng đầu năm nay, tăng 32,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhưng trái ngược với sự tăng giá trong nước, các nhà sản xuất giấy in báo Hàn Quốc lại chứng kiến giá xuất khẩu liên tục giảm do giá giấy in báo trên thị trường toàn cầu giảm nhẹ.

Giá giấy cao cấp giảm: Các nhà sản xuất giấy cao cấp tráng phấn (CFP) của Hàn Quốc đã chứng kiến lượng xuất khẩu giảm hai con số vào năm 2023 do nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm của họ, đặc biệt là ở Bắc Mỹ, giảm mạnh.

Xuất khẩu kém và nhu cầu trong nước yếu đã buộc các nhà sản xuất CFP phải giảm giá nhiều hơn cho khách hàng trong nước hàng tháng từ tháng 6 đến tháng 8, dẫn đến tổng giá thực tế giảm khoảng 3,5-4%.

Tuy nhiên, giá bột giấy giảm đáng kể trong quý 2 năm 2023 đã giảm bớt gánh nặng chi phí cho các nhà máy giấy cao cấp, cho phép họ linh hoạt hơn trong việc định giá.

Nhu cầu giấy P&W của Ấn Độ có thể tăng 10-12%; IPMA lo ngại về nhập khẩu ngày càng tăng

Nhu cầu giấy in và viết (P&W) ở Ấn Độ đã bắt đầu tăng và được dự đoán sẽ tăng hơn nữa trong quý IV.

Một nguồn tin tại Nhà máy giấy Emami cho rằng Chính sách Giáo dục Quốc gia (NEP) mới ở Ấn Độ đang được thực hiện trên nhiều bang khác nhau và dự kiến sẽ tăng nhu cầu giấy P&W của nước này lên 10-12% bắt đầu từ quý IV năm nay đến quý III năm 2024.

Sự thay đổi trong giáo trình của tất cả các bang trong nước theo NEP sẽ làm tăng nhu cầu về giấy để in sách giáo khoa bằng 22 ngôn ngữ khác nhau.

Chính phủ trung ương đã ban hành hướng dẫn việc thi hành NEP và chính quyền các bang tương ứng của Ấn Độ sẽ chịu chi phí để thực hiện chính sách này.

Các nguồn tin tại Satia Industries và Ballarpur Industries cho biết quý vừa qua đã không còn giấy để cung cấp cho khách hàng và hiện tại đã nhận được rất nhiều đơn đặt hàng.

Nguồn tin của Satia Industries lưu ý rằng các nhà xuất bản đang chờ đợi việc thực hiện đầy đủ NEP, điều này sẽ làm tăng đáng kể các đơn đặt mua giấy in sách giáo khoa từ cả các tổ chức nhà nước và tư nhân thông qua hợp đồng và bán hàng trên thị trường mở.

Ông nhận xét về việc chính phủ trung ương ngày càng tập trung vào nhu cầu giáo dục ở khu vực nông thôn, điều này dẫn đến mức tiêu thụ giấy P&W ngày càng tăng.

Một nguồn tin của West Coast Paper Mills nói về Đạo luật Quyền Giáo dục (RTA) đã làm tăng nhu cầu về giấy sách giáo khoa và vở ghi chép.

RTA cung cấp giáo dục bắt buộc và miễn phí cho trẻ em trong độ tuổi từ sáu đến mười bốn tuổi như một quyền cơ bản ở Ấn Độ và kiểm tra tất cả các khu vực lân cận thông qua các cuộc khảo sát thường xuyên và xác định những trẻ em đủ điều kiện được giáo dục nhưng không có phương tiện để đi học.

Ngoài ra, cuộc bầu cử sắp tới ở Ấn Độ vào năm tới sẽ khiến nhu cầu tăng đột biến chủ yếu từ các khu vực bán thành thị và nông thôn, nơi báo in vẫn đang thống trị.

Một cán bộ của TNPL cho rằng mặc dù nhu cầu đang được cải thiện nhưng hàng nhập khẩu rẻ hơn vẫn là mối đe dọa lớn nhất vì giá thấp hơn khoảng 10% so với giá hàng trong nước.

Ông cho biết các nhà xuất khẩu đang đẩy sản phẩm của họ sang Ấn Độ với mức giá rẻ hơn do nhu cầu tại thị trường nội địa giảm và do người mua ở các nước châu Âu giảm lượng mua hàng.

IPMA lo ngai về nhập khẩu: Người phát ngôn của Hiệp hội các nhà sản xuất giấy Ấn Độ (IPMA) đã gặp các quan chức của Cục Xúc tiến Công nghiệp và Thương mại nội địa thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp vào tuần trước trong bối cảnh lo ngại nhập khẩu giấy P&W gia tăng.

IPMA đã kêu gọi chính phủ tăng thuế hải quan cơ bản vì giấy P&W nhập khẩu vào Ấn Độ hiện chịu mức thuế 10% trong khi hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN được miễn thuế.

Khi hàng nhập khẩu từ Indonesia, Thái Lan và Trung Quốc tăng lên, quốc gia này gặp rủi ro khi cho phép nhập khẩu với mức thuế hải quan ưu đãi bằng 0.

Theo Tổng cục Tình báo và Thống kê Thương mại, thuộc Bộ Thương mại, lượng P&W nhập khẩu trong quý II năm nay tăng cao nhất trong số tất cả các loại giấy nhập khẩu khác.

IPMA chỉ ra rằng số lượng lớn giấy đang được nhập khẩu vào nước này với chi phí thấp hơn đáng kể và các nhà xuất khẩu nhận thấy Ấn Độ là một thị trường hấp dẫn để chuyển lượng hàng tồn kho dư thừa của họ do thuế suất nhập khẩu bằng 0 hoặc thấp trong khi ngành công nghiệp trong nước đang phải vật lộn với vấn đề sản xuất giấy với chi phí cạnh tranh.

Nhập khẩu miễn thuế cũng khiến hầu hết các nhà máy giấy vừa và nhỏ ở Ấn Độ không thể tồn tại được về mặt thương mại.

Hiệp hội cho biết thêm rằng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống trợ cấp phù hợp đối với hàng nhập khẩu cần được nhanh chóng áp dụng theo khuyến nghị của Tổng cục Phòng vệ thương mại, bên cạnh việc khẩn trương xem xét lại các hiệp định thương mại tự do đã ký trước đó, đặc biệt là với các nước ASEAN, vốn đã ảnh hưởng tới ngành sản xuất trong nước.

Giấy & Lâm nghiệp Nhạc Dương của Trung Quốc đặt mua máy UFP mới

Công ty giấy & Lâm nghiệp Nhạc Dương của Trung Quốc đã đặt mua một máy xeo giấy cao cấp không tráng phấn mới (UFP) cho nhà máy của mình ở thành phố Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam.

Valmet đã ký hợp đồng cung cấp máy xeo và dự kiến giao hàng vào quý III năm 2024. Nhà cung cấp không tiết lộ công suất của máy xeo, nhưng các máy tương tự thường có công suất khoảng 600.000 tấn/năm.

Máy có tên PM 11, sẽ có chiều rộng lưới 11,15 mét và tốc độ thiết kế 1.800 mét/phút. Máy được thiết kế để sản xuất giấy có định lượng 50-120 g/m2.

Giấy & Lâm nghiệp Nhạc Dương cũng đang di dời hai dây chuyền sản xuất bột giấy hóa-cơ công suất 100.000 tấn/năm từ nhà máy duy nhất của Công ty Giấy Nguyên Giang ở thành phố Ích Dương, cũng thuộc tỉnh Hồ Nam, đến nhà máy Nhạc Dương.

Hai dây chuyền bột sẽ được tích hợp một phần với PM mới.

 

Công ty giấy Cường Vệ Sơn Tây của Trung Quốc khởi động máy xeo giấy làm thùng sóng tái chế 200.000 tấn/năm tại nhà máy Tấn Trung

Công ty giấy Cường Vệ Sơn Tây của Trung Quốc đã khởi động máy xeo (PM) giấy làm thùng sóng tái chế mới có công suất 200.000 tấn/năm tại nhà máy ở thành phố Tấn Trung, tỉnh Sơn Tây. Máy được đặt tên là PM 8 đã được đưa vào hoạt động vào thứ Hai ngày 25 tháng 9. Đây là máy thứ hai được đưa vào vận hành tại nhà máy trong tháng 9. Ngày 1 tháng 9, nhà máy đã khởi động PM 7, máy xeo giấy làm thùng sóng tái chế có công suất 250.000 tấn/năm.

Nhà cung cấp máy nội địa Công nghiệp Thanh Lương Thượng Hải đã cung cấp hai PM, mỗi PM có chiều rộng cắt 5,6 mét và tốc độ thiết kế 800 mét/phút.

Hiện tại, nhà sản xuất này đang vận hành ba máy xeo bìa tái chế khác với tổng công suất 700.000 tấn/năm tại nhà máy ở thành phố Tấn Trung.

Tập đoàn Kim Bác Sĩ của Trung Quốc đặt mua 8 máy TM mới cho nhà máy mới ở Hiếu Cảm, Hồ Bắc

Tập đoàn Kim Bác Sĩ của Trung Quốc đã đặt hàng 8 máy xeo giấy tissue (TM) mới với tổng công suất 160.000 tấn/năm cho một nhà máy ở thành phố Hiếu Cảm, tỉnh Hồ Bắc.

Nhà cung cấp máy nội địa Công ty Công nghiệp Thanh Lương Thượng Hải sẽ cung cấp TM, dự kiến khởi động vào khoảng tháng 10 năm 2024.

Trong số các máy mới, một chiếc sẽ có chiều rộng cắt 2,85 mét và tốc độ thiết kế 700 mét/phút, ba chiếc sẽ có chiều rộng cắt 2,85 mét và có tốc độ thiết kế 1.400 mét/phút, trong khi bốn chiếc sẽ có chiều rộng cắt 3,65 mét và có tốc độ thiết kế 1.400 mét/phút. Kim Bác Sĩ hiện đang vận hành một nhà máy giấy tissue công suất 190.000 tấn/năm tại thành phố Bảo Định, tỉnh Hà Bắc. Vào tháng 7, nhà sản xuất quyết định đầu tư vào Hồ Bắc.

Tám TM mới là động thái mở rộng đầu tiên của họ ở Hiếu Cảm, nơi họ có kế hoạch xây dựng tổng công suất giấy tissue là 250.000 tấn/năm.

 

Giấy Thăng Đạt Nam Ninh khởi động máy xeo 17.000 tấn/năm tại Quảng Tây Trung Quốc

Giấy Thăng Đạt Nam Ninh của Trung Quốc đã khởi động nhà máy xeo giấy tissue mới 17.000 tấn/năm tại nhà máy ở thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây.

Chiếc máy có tên TM 4 đã sản xuất cuộn giấy đầu tiên vào thứ Ba ngày 26 tháng 9. Máy có chiều rộng cắt 2,85 mét và tốc độ thiết kế 1.600 mét/phút.

Nhà sản xuất này hiện cũng đang vận hành ba máy TM khác với tổng công suất 61.000 tấn/năm tại nhà máy Nam Ninh.

 

Tập đoàn Metsä khởi công nhà máy bột giấy Kemi công suất 1,5 triệu tấn/năm ở Phần Lan, dự kiến giao hàng sang Trung Quốc vào tháng tới

Tập đoàn Metsä đã khởi động nhà máy bột giấy và sản phẩm sinh học mới tại Kemi ở Phần Lan, có công suất khoảng 1,5 triệu tấn/năm các sản phẩm bột giấy từ gỗ mềm và gỗ cứng cũng như các sản phẩm sinh học khác.

Một phần lớn sản lượng bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương bắc (NBSK) của nhà máy dự kiến sẽ được chuyển sang Trung Quốc từ tháng tới.

Tập đoàn Metsä là nhà cung cấp NBSK thường xuyên cho Trung Quốc và đã ký hợp đồng dài hạn ở đó, chủ yếu là với người dùng cuối.

Ngoài các hoạt động sản xuất bột giấy mới, khoản đầu tư trị giá 67 triệu Euro (72 triệu USD) còn bao gồm việc mở rộng nhà máy giấy tại cùng địa điểm, hiện đang sản xuất 425.000 tấn kraftliner mặt trắng không tráng và có tráng phấn.

Việc mở rộng sẽ tăng công suất của nhà máy để sản xuất kraftliner mặt trắng thêm 40.000 tấn/năm.

 

Hai nhà cung cấp BCTMP chính của Canada tại Trung Quốc hợp tác trong bối cảnh nhu cầu tăng cao

Việc bán các nhà máy Quesnel và Slave Lake của West Fraser Timber ở Canada cho Atlas Holdings đã khuấy động thị trường bột giấy Trung Quốc vào thời điểm giá bột giấy tăng do giá bột giấy tương lai tăng vọt trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải và người mua bổ sung bột dự trữ ở Trung Quốc.

Hai công ty đã công bố việc ký thỏa thuận cuối cùng về việc bán hai nhà máy bột giấy vào thứ Sáu ngày 22 tháng 9, với cả hai cơ sở sản xuất bột giấy sẽ được Millar Western Forest Products (công ty đã được Atlas mua lại vào năm 2017) vận hành.

West Fraser và Millar Western đều là những nhà cung cấp chính bột giấy hóa-nhiệt-cơ tẩy trắng (BCTMP) ở Trung Quốc.

Nhà máy Quesnel ở British Columbia sản xuất BCTMP gỗ mềm với công suất 400.000 tấn/năm và nhà máy Slave Lake công suất 280.000 tấn/năm ở Alberta sản xuất BCTMP gỗ cứng.

Millar Western vận hành một nhà máy BCTMP công suất 320.000 tấn/năm ở Whitecourt, Alberta, sản xuất cả loại gỗ mềm và gỗ cứng.

Thống kê cho thấy, nhập khẩu BCTMP tại Trung Quốc đã bị ảnh hưởng do nhu cầu kém vào đầu năm nay, với giá giảm xuống mức 440-480 USD/tấn đối với BCTMP gỗ mềm và 430-470 USD/tấn đối với BCTMP gỗ cứng vào đầu tháng 7.

Nhưng nhu cầu về các loại bột giấy đã tăng lên do người tiêu dùng bổ sung bột dự trữ, đẩy giá BCTMP gỗ mềm tăng lên 510-530 USD/tấn và 500-510 USD/tấn đối với BCTMP gỗ cứng.

Các nhà máy Trung Quốc sử dụng BCTMP nhập khẩu dưới dạng hỗn hợp bột làm nguyên liệu sản xuất chủ yếu bìa tráng phấn màu ngà để xuất khẩu và làm hộp đựng hàng tiêu dùng.

Nhu cầu nhập khẩu BCTMP dự kiến sẽ tăng do việc mở rộng sản xuất bìa cứng từ bột nguyên chất đang thịnh hành ở Trung Quốc.

Công ty Bột & Giấy Liên Thành Phúc Kiến đã khởi động máy xeo bìa cứng công suất 1,2 triệu tấn/năm tại nhà máy Chương Phố ở tỉnh Phúc Kiến vào tháng 5.

Và Biểu Tượng Châu Á đang chuẩn bị khởi động máy xeo bìa tráng phấn màu ngà công suất 1 triệu tấn/năm tại nhà máy Như Cao ở tỉnh Giang Tô trong quý IV, trong khi Quốc Tế Tài Nguyên Châu Á-Thái Bình Dương cũng đặt mục tiêu đưa vào sản xuất một máy xeo bìa từ sợi nguyên chất 1 triệu tấn/năm trong quý IV.

 

Paper Excellence khởi động lại nhà máy Crofton ở Canada

Paper Excellence đã phục hồi sản xuất bột kraft tại nhà máy Crofton ở British Columbia, Canada, sau ba tháng ngừng hoạt động.

Nhà máy sản xuất bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương bắc (NBSK) với công suất 535.000 tấn/năm.

Paper Excellence đã chào bán NBSK của nhà máy ở Trung Quốc khi nhu cầu và giá bột gỗ mềm tăng do giá bột giấy kỳ hạn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng.

Công ty cho biết trong khi các điều kiện thị trường cho phép khởi động lại hoạt động sản xuất bột giấy, việc cắt giảm hoạt động sản xuất giấy tại Crofton sẽ được kéo dài đến cuối tháng 10.

Cơ sở này vận hành một máy xeo giấy in báo công suất 130.000 tấn/năm, được tích hợp một phần với dây chuyền sản xuất bột giấy.

 

BỘT NHẬP KHẨU VÀO TRUNG QUỐC                                                

Thực giá, USD/tấn CIF tại các cảng chính.

Giá hiện hành So với tuần trước
29/09/2023 22/09/2023 15/09/2023 (%)
HÀNG TUẦN
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng (BSK)
  NBSK – Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương Bắc 715 710 688 0,70%
HAI TUẦN/LẦN
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng
  Gỗ thông Radiata (Chile) 675 675 675 0,00%
  BSK Nga* 695 695 655 0,00%
Bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK)
  Gỗ bạch đàn 550 550 550 0,00%
  BHK Nga* 530 530 530 0,00%
Bột kraft gỗ mềm không tẩy (USK)
  Chile và Bắc Mỹ 635 635 630 0,00%
  Nga 565 565 560 0,00%
Bột hoá nhiệt cơ tẩy trắng (BCTMP)
  Gỗ cứng (độ trắng 80%) 505 505 475 0,00%
  Gỗ mềm (độ trắng 75%) 520 520 485 0,00%
HÀNG THÁNG
Bột làm bỉm (Kraft phương bắc Mỹ) 830 830 830 0,00%

GHI CHÚ: *  BSK Nga và BHK Nga là giá CIF tới các cảng chính của Trung Quốc.

 

BỘT TÁI CHẾ NHẬP KHẨU VÀO TRUNG QUỐC

Thực giá, USD/tấn, CIF tại các cảng chính của Trung Quốc

Giá hiện tại % so với
Tháng 09, 2023 Tháng 08, 2023 Tháng 07, 2023 tháng trước
Bột màu nâu tái chế
  từ Mỹ 305 300 300 1,67%
  từ Châu Á 265 260 260 1,92%

 

THÙNG SÓNG CŨ (OCC) NHẬP KHẨU VÀO ĐÔNG NAM Á

Giá USD/tấn CIF tại các cảng chính Đông Nam Á (trừ Indonesia) và Đài Loan

29/09/2023 15/09/2023 01/09/2023 So với 2 tuần trước
OCC (11) từ Mỹ 192,5 182,5 177,5 5,48%
OCC (90/10) từ Châu Âu 132,5 140 132,5 -5,36%
OCC (95/5) từ Châu Âu 147,5 145 137,5 1,72%
OCC Nhật Bản 147,5 147,5 142,5 0,00%

 

GIÁ GIẤY LÀM BAO BÌ Ở TRUNG QUỐC

Giá cho giấy nội địa, NDT/tấn, Phía Đông Trung Quốc1, gồm cả VAT

Định lượng Tháng 09

2023

Tháng 08

2023

Tăng/giảm
g/m2 A A A / B
Giấy lớp mặt làm từ bột nguyên chất
  Kraftliner2 175 USD 488 USD 488 0,00%
Giấy làm thùng sóng tái chế
  Testliner 140 3385 3260 3,83%
  Giấy lớp mặt, mặt kraft 170 4078 4068 0,25%
  Giấy lớp mặt, mặt trắng 140 5575 5550 0,45%
  Giấy lớp sóng cao cấp 120 3288 3158 4,12%
Bìa
  Bìa tráng phấn màu ngà cao cấp 250 7100 7100 0,00%
  Bìa tráng phấn màu ngà thông thường 250 4967 4717 5,30%
  Duplex lưng xám cao cấp 250 4175 4035 3,47%
  Duplex lưng xám thông thường 250 3600 3523 2,19%
Ghi chú:
1 Đông Trung Quốc gồm: Chiết Giang, Giang Tô và Thượng Hải và tính cả Quảng Đông
2 Nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ, Châu Âu, Nga và Úc. Giá: USD/tấn, CIF các cảng phía Đông Trung Quốc

 

Nguồn: PPIA – Ban Biên tập VPPA

Bản Tin VPPA tháng 09/2023

Trong bản tin số 9 – tháng 9/2023 bao gồm:

1. Giá xuất – nhập khẩu bột giấy và giấy

2. Tình hình sản xuất – kinh doanh ngành giấy trong nước

3. Tin tức đầu tư- kinh tế 

Thị trường thực phẩm ở Anh lần đầu tiên xuất hiện khi Mondi ra mắt bao bì giấy có thể tái chế mới với Veetee

Paper Excellence Canada thông báo khởi động lại hoạt động sản xuất bột giấy kraft tại nhà máy Catalyst Crofton

Thiết bị ngành giấy – Bơm bột giấy (Công ty ShangBaoLuo)

   >>>XEM BẢN TIN THÁNG 9/2023

Dàn “đại bàng” hùng hậu sắp về làm tổ, khởi động làn sóng đầu tư mới đổ bộ vào Việt Nam

Đó là những chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng với Báo Chính phủ về kết quả chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ đến Hoa Kỳ và Brazil vừa qua. Bên cạnh nhiều biên bản hợp tác được ký kết, loạt “ông lớn” về công nghệ, sản xuất,… muốn đầu tư vào Việt Nam trong chuyến thăm hai nước của Thủ tướng, được kỳ vọng tác động tốt đến đầu tư nước ta.

Hàng loạt biên bản ghi nhớ được ký kết

Chuyến công tác 10 ngày của Thủ tướng tới Mỹ và Brazil từ 17-26/9 đã diễn ra Lễ ký kết và trao Biên bản ghi nhớ giữa Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) với Tập đoàn Cadence Design Systems về việc triển khai các hoạt động nhằm thúc đẩy năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm chip bán dẫn tại Việt Nam; Biên bản ghi nhớ giữa Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia và Đại học bang Arizona về phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam; Biên bản ghi nhớ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam với Tập đoàn Intel về phát triển nguồn nhân lực cho các ngành công nghệ cao.

Ngoài ra, Synopsys (một công ty tự động hóa thiết kế điện tử (EDA), cung cấp các công cụ và dịch vụ cho ngành sản xuất và thiết kế chất bán dẫn) và Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia đã ký kết biên bản ghi nhớ về phát triển nguồn nhân lực tài năng thiết kế vi mạch (IC) tại Việt Nam, trong đó Synopsys hỗ trợ NIC thành lập một trung tâm ươm tạo thiết kế chip.

Đồng thời, Synopsys và Cục Công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã ký kết biên bản ghi nhớ về hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn Việt Nam.

Cũng trong chuyến thăm của Thủ tướng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) và Nvidia cho biết dự kiến hoàn thiện các thủ tục nội bộ và ký kết thỏa thuận hợp tác về nghiên cứu-phát triển-chuyển giao và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn thời gian tới.

Tập đoàn Cổng vàng (Golden Gate Group) của Việt Nam và Tập đoàn Cargill Hoa kỳ đã ký Bản ghi nhớ thiết lập Đối tác nhập khẩu chiến lược (loại 1), cho phép tăng đáng kể số lượng thịt bò nhập khẩu từ Cargill từ mức 16 triệu USD năm 2022.

Dàn “đại bàng” hùng hậu sắp về làm tổ

Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp đón lãnh đạo loạt tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, đồng thời nhận về nhiều đề nghị, mong muốn đầu tư tại Việt Nam.

Trong đó, đại diện SpaceX – tập đoàn lớn của Hoa Kỳ và hàng đầu thế giới về cung cấp tàu vũ trụ, dịch vụ phòng vệ tinh và truyền thông vệ tinh, dự kiến đầu tư 500 triệu USD vào Việt Nam, mong muốn được cung cấp dịch vụ Starlink (internet vệ tinh) tại Việt Nam, qua đó giúp cung cấp dịch vụ internet băng thông rộng tại những “vùng lõm” về sóng.

Dàn “đại bàng” hùng hậu sắp về làm tổ, khởi động làn sóng đầu tư mới đổ bộ vào Việt Nam - Ảnh 2.

Ngoài ra, Tập đoàn Pacifico Energy (trụ sở chính ở Hoa Kỳ) là nhà đầu tư năng lượng mặt trời lớn nhất tại Nhật Bản mong muốn tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam và chia sẻ về ý tưởng phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam. Việt Nam cùng với Nhật Bản và Hàn Quốc là 3 thị trường quan trọng nhất của Tập đoàn. Tại Việt Nam, Pacifico Energy hiện là nhà đầu tư năng lượng tái tạo lớn nhất của Hoa Kỳ với dự án điện mặt trời Mũi Né công suất 40 MW ở Bình Thuận và dự án điện gió Sunpro 30 MW ở Bến Tre.

Cũng trong chuyến thăm Mỹ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có buổi tiếp đón và gặp gỡ với nhà sáng lập, Chủ tịch tập đoàn Microsoft, đồng thời là nhà sáng lập và Chủ tịch Quỹ Gates Bill Gates. Vị tỷ phú cho biết mong muốn tiếp tục thúc đẩy các hoạt động hợp tác và hỗ trợ Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực vệ sinh, nước sạch, môi trường; lĩnh vực y tế, nhất là phòng chống lao phổi; lĩnh vực AI và các mô hình giáo dục tiên tiến.

Dàn “đại bàng” hùng hậu sắp về làm tổ, khởi động làn sóng đầu tư mới đổ bộ vào Việt Nam - Ảnh 3.

Bill Gates cho biết, Việt Nam rất quan trọng trong chính sách phát triển của Microsoft và các quỹ. Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

Đại diện Apple cho biết doanh nghiệp đang rất quan tâm chiến lược năng lượng sạch của Việt Nam và việc thúc đẩy tiếp cận năng lượng sạch cho các nhà sản xuất của Tập đoàn tại Việt Nam; đồng thời mong muốn tham gia phát triển, đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam, nhất là đội ngũ nhân lực phát triển các phần mềm.

Về lĩnh vực công nghệ, Đại diện Google – tập đoàn công nghệ đa quốc gia hàng đầu thế giới đánh giá cao các định hướng lớn về hợp tác đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ trong tuyên bố chung Việt Nam – Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện. Ông Karan Bhatia, Phó Chủ tịch phụ trách quan hệ Chính phủ và chính sách công của Google cũng nêu các đề xuất hợp tác, đầu tư liên quan tới lĩnh vực điện toán đám mây, hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong dạy và học trực tuyến.

Meta Platforms, Inc. hoạt động kinh doanh với tên gọi Meta , chủ sở hữu Facebook, Instagram, Threads và WhatsApp cho biết mong muốn mở rộng đầu tư tại Việt Nam, trong đó có việc tiếp tục sản xuất các thiết bị của metaverse cho những năm tới.

Với Coca-Cola – doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và phân phối các sản phẩm đồ uống hàng đầu thế giới , có ý định theo hướng sản xuất xanh, bảo vệ môi trường, mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ trong quá trình đầu tư tại Việt Nam.

Lãnh đạo Tập đoàn Boeing – nhà sản xuất hàng đầu các máy bay phản lực thương mại, các hệ thống phòng thủ, không gian vũ trụ và an ninh cũng đã trao đổi với Thủ tướng về chiến lược và các cam kết hợp tác của Boeing với Việt Nam trong thời gian tới; mong muốn ngày càng có nhiều các nhà cung ứng cho tập đoàn tại Việt Nam.

Tập đoàn Siemens Healthineers dẫn đầu trong lĩnh vực cung cấp các sản phẩm và giải pháp hiện đại trong chẩn đoán hình ảnh, siêu âm, các phương pháp điều trị, phòng ngừa, giám sát và theo dõi, bao phủ toàn bộ quá trình chăm sóc bệnh nhân. Lãnh đạo tập đoàn này mong muốn tiếp tục mở rộng hoạt động, chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực y tế tại Việt Nam; mong muốn nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ Chính phủ Việt Nam để tạo thuận lợi về khung pháp lý và chính sách.

Trong chuyến thăm tới Brazil ngày 24/9, Thủ tướng đã có cuộc tọa đàm với các doanh nghiệp tại đất nước này. Đại diện các doanh nghiệp Brazil đã thông tin về việc tìm hiểu về cơ hội hợp tác đầu tư, kết nối kinh doanh tại Việt Nam và nêu các kiến nghị với Chính phủ, các bộ ngành hai nước; đề xuất các dự án hợp tác cụ thể. Trước đó 1 ngày, Thủ tướng cũng có buổi làm việc với Tập đoàn hàng không vũ trụ Embraer, nhà sản xuất máy bay thương mại lớn thứ 3 toàn cầu, chỉ sau hãng Boeing và Airbus.

Theo đó, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Embraer Francisco Gomes Neto bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam trong quá trình tìm kiếm cơ hội hợp tác và mở rộng thị trường tại Việt Nam; sẵn sàng triển khai các dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay tại Việt Nam, cũng như cung cấp các giải pháp công nghệ trong lĩnh vực hàng không.

Hàng loạt doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực muốn di cư tại Việt Nam dự báo cho một làn sóng đầu tư mới tại Việt Nam. “ Chúng ta đang hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp Hoa Kỳ và được Chính phủ Hoa Kỳ hậu thuẫn, ủng hộ. Hy vọng đón nhận làn sóng đầu tư mới, tích cực của các doanh nghiệp Hoa Kỳ hàng đầu thế giới, có tiềm lực tài chính, công nghệ, thị trường sẽ tác động tốt đến đầu tư nước ta” , Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng nhận định.

Nhật Minh

Nhịp sống thị trường

Đề xuất áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ ngày 1/1/2024

Tiếp tục Phiên họp thứ 26, sáng 28/9, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu.

Thừa ủy quyền của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày Tờ trình của Chính phủ nêu rõ sự cần thiết ban hành dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu.

Theo đó, ngày 9/7/2021, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương của Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã thống nhất về nguyên tắc giải pháp hai trụ cột nhằm giải quyết các thách thức về thuế phát sinh trong quá trình số hóa nền kinh tế, bao gồm: Trụ cột thứ nhất, phân bổ thuế đối với hoạt động kinh doanh dựa trên kỹ thuật số. Trụ cột thứ hai, đặt ra mức thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia.

Ngày 16/12/2022, Diễn đàn hợp tác toàn cầu về BEPS đã công bố có 138 nước đồng thuận đối với nội dung về Khung giải pháp hai trụ cột nêu trên. Việt Nam là thành viên thứ 100 của BEPS và không có ý kiến bảo lưu về nội dung này, nên là một trong những nước đồng thuận.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc khẳng định, thuế tối thiểu toàn cầu có bản chất là thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung và các nước cần quy định trong hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp.

Việc áp dụng các quy định của thuế tối thiểu toàn cầu mang lại cho Việt Nam những cơ hội mới, cụ thể như: Tăng nguồn thu ngân sách nhà nước từ phần thu thuế bổ sung; Tăng cường hội nhập quốc tế; Giảm thiểu hiện tượng trốn thuế, tránh thuế, chuyển giá, chuyển lợi nhuận.

Dự án Nghị quyết của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu gồm 9 Điều. “Dự thảo Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024 cho đến ngày Nghị quyết này được thay thế bởi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) có hiệu lực thi hành” – Bộ trưởng nêu.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, các quy định về việc áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu gọi tắt là quy định GloBE được OECD đề xuất và bắt đầu áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2024. Hiện nhiều nước đã nội luật hóa các quy định này để áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2024.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Lê Quang Mạnh

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Lê Quang Mạnh

Nếu Việt Nam không nội luật hóa các quy định về thuế tối thiểu toàn cầu, thì các nước xuất khẩu vốn đầu tư sẽ được thu khoản thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung (cho đủ mức 15%) đối với các công ty đa quốc gia có dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang được hưởng mức thuế suất thực tế dưới 15%.

Vì vậy, để bảo đảm giữ quyền đánh thuế của Việt Nam, Thường trực Ủy ban Tài chính Ngân sách nhất trí cần ban hành văn bản pháp lý để tạo cơ sở cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thuộc diện điều chỉnh của GloBE có thể kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung và yên tâm về môi trường pháp lý tại Việt Nam.

Trong bối cảnh Chính phủ chưa triển khai kế hoạch sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp để quy định vào Luật các nội dung liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Tài chính ngân sách nhất trí cần tạm thời ban hành Nghị quyết (thí điểm) của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu của OECD trước khi tiến hành sửa Luật.

Đồng thời, đề nghị Chính phủ báo cáo rõ kế hoạch, thời gian sửa đổi, bổ sung Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp và dự kiến về thời gian hiệu lực thi hành để bảo đảm các nội dung về thuế phải được quy định một cách thống nhất trong Luật.

Thường trực Ủy ban Tài chính ngân sách cơ bản tán thành với Tờ trình của Chính phủ về mục tiêu, quan điểm xây dựng Nghị quyết trong việc bảo đảm quyền đánh thuế của Việt Nam phù hợp với thông lệ và xu thế thuế quốc tế đang được các nước triển khai và đáp ứng yêu cầu của một số tập đoàn đầu tư nước ngoài lớn đang hoạt động và muốn được kê khai nộp thuế tối thiểu toàn cầu bổ sung tại Việt Nam, áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2024.

Đối với quan điểm đề nghị tiếp tục duy trì các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, Thường trực Ủy ban Tài chính ngân sách cho rằng, việc ban hành Nghị quyết mới chỉ đáp ứng được yêu cầu đặt ra trước mắt, mang tính “tạm thời” (để có cơ chế áp dụng ngay với kỳ tính thuế 2024), khi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn chưa được sửa đổi một cách tổng thể.

“Hệ thống ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam sẽ không còn phát huy tác dụng và phù hợp với bối cảnh thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu” – ông Lê Quang Mạnh cho hay

Vì vậy, khi tiến hành sửa đổi Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, đồng thời với việc luật hóa các quy định về thuế tối thiểu toàn cầu quy định trong Nghị quyết này thì hệ thống chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành cần phải được đánh giá và hoàn thiện lại một cách tổng thể, phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, áp dụng thống nhất với các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, các nhà đầu tư hiện tại cũng như các nhà đầu tư trong tương lai.

Quỳnh Nga – Báo mới