2021 – Đại dịch COVID-19 và một năm nữa vượt khó của ngành Giấy Việt Nam

Năm 2021, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, một năm nữa đầy khó khăn và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, cũng như đối với các doanh nghiệp Ngành giấy nói riêng. Tình hình dịch diễn biến phức tạp hơn và căng thẳng kéo dài, gây ảnh hưởng và thiệt hại cho các doanh nghiệp còn nặng nề hơn so với năm 2020, thậm chí còn gây nguy hiểm đến tính mạng của người lao động.

Các doanh nghiệp Ngành Giấy đã gặp phải rất nhiều khó khăn, không đủ nguyên liệu cho sản xuất, nguồn cung giấy phế liệu thiếu, chi phí logistics và vận tải đường biển tăng cao. Cùng với đó, các doanh nghiệp trong ngành còn chịu thiệt hại rất lớn do phải thực hiện các biện pháp vừa chống dịch vừa sản xuất như “3 tại chỗ, một cung đường, hai điểm đến”, chi phí sản xuất gia tăng, chi phí ăn ở và xét nghiệm Covid cho công nhân thực hiện sản xuất tại chỗ; gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào và gián đoạn chuỗi tiêu thụ sản phẩm…

Nối tiếp năm 2020, một năm hoạt động với nhiều sự kiện nổi bật và thành công, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, trong năm 2021 vẫn được các cơ quan nhà nước đánh giá là một trong số các Hiệp hội Ngành nghề, hoạt động tích cực trách nhiệm, tiếp tục là cầu nối giữa các doanh nghiệp Hội viên với các Bộ, Ngành và cơ quan quản lý nhà nước. Nhất là trong vấn đề quan tâm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Tích cực phản ánh và đề xuất tới các cơ quan quản lý nhà nước các biện pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất bình thường.

Trong bối cảnh các doanh nghiệp bị buộc phải dừng hoạt động do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Văn phòng Hiệp hội đã phối hợp cùng với các công ty kiến nghị tới Chính phủ, địa phương để tìm phương án tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Điển hình là việc phối hợp với Công ty CP XNK Bắc Giang, kiến nghị với chính quyền tỉnh cho công ty tổ chức mô hình sản xuất “3 tại chỗ”, nhằm bảo đảm sản xuất của công ty, công nhân không nghỉ việc vừa bảo đảm phòng chống dịch, bảo đảm sản xuất. Hay như việc tháo gỡ khó khăn cho Công ty CP giấy Sài Gòn bị phong tỏa hoạt động trong thời điểm bùng phát đợt dịch thứ 4, Văn phòng Hiệp hội đã nhanh chóng kiến nghị tới Văn phòng Chính phủ, tới UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Sở Y tế, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu… đề xuất và kiến nghị, xem xét tình hình thực tế và dỡ bỏ phong tỏa cho Công ty Cổ phần Giấy Sài Gòn, để công ty nhanh chóng trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường trong cuối tháng 10/2021.

Ngoài những kiến nghị, đề xuất độc lập và cụ thể với các cơ quan quản lý chuyên ngành, chuyên môn, Hiệp hội còn tích cực tham gia và phối hợp cùng với các Hiệp hội khác kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong bối cảnh đại dịch Covid, cụ thể như: tổ chức hoạt động sản xuất với mô hình “3 tại chỗ, 1 cung đường, 2 điểm đến”, “vùng xanh an toàn”, ưu tiên tiêm văc-xin” nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp tại khu vực phía nam; giảm tiền điện cho các doanh nghiệp Ngành giấy giai đoạn 6 tháng cuối năm 2021; kiến nghị về hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp, không phải quyết toán thuế 2020; tạm thời bỏ quy định về số giờ làm thêm hàng tháng không quá 40 giờ, vì các nhà máy sản xuất giấy thường xuyên hoạt động 24/24, trong khi nhân lực thiếu hụt; cũng như ưu tiên tiêm vắc-xin phòng Covid cho người lao động thuộc Ngành giấy…

Trong năm 2021, Hiệp hội đã gửi nhiều văn bản kiến nghị, đề xuất tới các cơ quan như:  Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp cùng các cơ quan quản lý Nhà nước khác về nội dung của Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật bảo vệ môi trường 2020. Tham dự các Hội thảo chuyên đề và tham gia góp ý cho các dự thảo Quy chuẩn và Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia. Các nội dung kiến nghị của Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam hầu như đã được các Ban soạn thảo Nghị định, Quy chuẩn và Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia chấp thuận và sửa đổi, có văn bản đã được ban hành, có văn bản đã được thông báo kết quả sửa đổi và chờ ban hành.

Trong Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022, Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020, Hiệp hội đã kiến nghị và đã được Ban soạn thảo chấp thuận và đưa vào văn bản nghị định ban hành, cụ thể:

– Tiếp tục gia hạn đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022 đối với Giấy xác nhận đủ điều kiện bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, nhằm cụ thể hoá việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp vượt qua đại dịch theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/09/2021 (Nghị quyết về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19);

– Tiếp tục gia hạn việc lắp đặt các hệ thống quan trắc môi trường tự động liên tục khí thải, nước thải đến hết 31 tháng 12 năm 2024;

– Cho phép xử lý đốt rác thải rắn sinh hoạt và công nghiệp thông thường, điều này sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vừa tăng hiệu quả kinh tế vừa bảo vệ môi trường, thực hiện tốt mô hình kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp;

– Nâng mức lưu lượng xả nước thải ra môi trường từ 200m3/ngày (24 giờ) lên 500m3/ngày (24 giờ) mới bắt buộc phải lắp đặt quan trắc môi trường tự động;

Về việc tham gia góp ý xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia Việt Nam: Hiệp hội đề xuất và kiến nghị việc ban hành các QCVN cần phải phù hợp với trình độ công nghệ, quy mô kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành hoạt động, cụ thể:

– Trong dự thảo Quy chuẩn 33:2021/BTNMT (Quy chuẩn về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất), Hiệp hội đã kiến nghị về tỷ lệ phần trăm tạp chất, độ ẩm của giấy thu hồi nhập khẩu, về phương pháp phân hạng và xếp loại nguyên liệu;

– Trong dự thảo QCVN 40:2021, thay thế cho QCVN 12-MT:2015 (Quy chuẩn nước thải công nghiệp trong ngành giấy), Hiệp hội đã kiến nghị loại bỏ các chỉ tiêu về AOX, dioxin-fural trong nước thải của các nhà máy bột giấy và giấy. Kết quả trong Dự thảo cơ quan soạn thảo đã chấp nhận và loại bỏ các chỉ tiêu dioxin-fural ra khỏi danh mục các chỉ tiêu phải xét nghiệm tại nhà máy sản xuất giấy từ nguyên liệu giấy thu hồi, chỉ xem xét áp dụng chỉ tiêu này đối với các nhà máy bột giấy có sử dụng công đoạn tẩy trắng;

– Kiến nghị về những bất cập trong việc cấp chi tiết các mã HS trong Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu và sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, đề nghị cơ quan cấp phép chỉ nên cấp tổng khối lượng phế liệu và các loại mã HS được nhập, không nên cấp khối lượng chi tiết cho từng mã HS. Điều khoản này, cơ quan quản lý đồng ý về chủ trương và đang xem xét, xin ý kiến chuyên gia và sớm trả lời;

2021-dai-dich-covid-19-va-mot-nam-nua-vuot-kho-cua-nganh-giay-viet-nam

Trong năm 2021, Văn phòng Hiệp hội cũng đã thực hiện nhiều nhiệm vụ chuyên môn theo sự phân công của của cơ quan quản lý chuyên môn đó là Bộ Công Thương, điển hình là thực hiện việc xây dựng “Chiến lược Ngành công nghiệp Giấy Việt Nam giai đoạn 2025-2030 và tầm nhìn đến năm 2045”. Đây là nhiệm vụ có quy mô lớn và khá là nặng nề, phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực. Cùng với việc xây dựng Chiến lược ngành, Văn phòng còn thực hiện các đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ khác theo sự phân công của Bộ Công Thương như: Đổi mới khoa học công nghệ trong ngành; Quản lý nguyên liệu giấy thu hồi…

Do tác động tiêu cực của dịch Covid-19, thực hiện các chỉ thị về phòng chống dịch của Thủ tướng cũng như của các địa phương, Văn phòng Hiệp hội đã không thể tổ chức các hội nghị và hội thảo, mặc dù Văn phòng đã chuẩn bị chi tiết về nội dung và kế hoạch thực hiện các sự kiện này như: Hội thảo về lò hơi đồng đốt trong các nhà máy giấy; Hội thảo về kinh tế tuần hoàn; Hội nghị toàn thể hội viên và Hội thảo kỹ thuật ngành giấy năm 2021. Chính điều này cũng gây khó khăn về mặt tài chính cho Văn phòng Hiệp hội, nguồn thu tài chính bị cắt giảm, duy nhất chỉ còn từ hội phí hội viên, nhưng Văn phòng vẫn thực hiện và phải chi phí cho các công việc thường xuyên, mua thông tin, cũng như chi phí cho việc chuẩn bị các hội nghị, hội thảo nhưng không được tổ chức.

Mặc dù không phải là cơ quan  chuyên môn về công tác truyền thông, nhưng Văn phòng Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam vẫn thực hiện và duy trì đều đặn các công tác thông tin thường xuyên của Văn phòng: mua thông tin từ nước ngoài, thông tin và dữ liệu hải quan, thu thập thông tin từ các doanh nghiệp, dịch thuật, biên tập, sàng lọc thông tin, biên soạn và phát hành đều đặn các Bản tin kinh tế ngành, cập nhật tin lên trang Website, phát hành Tạp chí (online), cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp trong ngành và phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước như Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường…

Trong năm 2021, số lượng hội viên của Hiệp hội đã tăng thêm 03 Hội viên, thành phần hội viên của Hiệp hội có sự đồng đều về các lĩnh vực, ngành nghề như: sản xuất, đào tạo, dịch vụ và môi trường…, nhưng trong đó các doanh nghiệp hội viên sản xuất vẫn chiếm đa số, đổi mới cả về chất và lượng trong các lĩnh vực: đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.

Năm 2021 – Mặc dù phải liên tục đối phó với đại dịch, thị trường liên tục xáo trộn và biến động, giá nguyên liệu đầu vào (giấy thu hồi) và chi phí vận tải lên cao, chi phí hoạt động gia tăng. Tuy vậy, theo như số liệu thống kê của Văn phòng Hiệp hội thì hai chỉ tiêu tiêu dùng và sản xuất của ngành vẫn có mức tăng trưởng ấn tượng; Tổng tiêu dùng giấy các loại năm 2021 ước đạt 5,702 triệu tấn, tăng 4,2% so với 5,40 triệu tấn của năm 2020, trong đó giấy bao bì đạt 4,65 triệu tấn, tăng 6,2%; Tổng sản lượng giấy các loại ước đạt 5,35 triệu tấn, tăng 4,6% so với 5,0 triệu tấn của năm 2020, trong đó riêng giấy bao bì tăng 6%, đạt 4,57 triệu tấn.

Các dự án đầu tư dây chuyền sản xuất giấy bao bì giai đoạn cuối 2020 và đầu 2021 đã bắt đầu hoạt động ổn định và cung cấp sản phẩm ra thị trường như: Công ty CP giấy Marubeni, Công ty CP giấy Khôi Nguyên, Công ty CP giấy Toàn Cầu, Công ty CP giấy Phát Đạt, Công ty CP giấy Tân Huy Kiệt, Công ty giấy Miza, Công ty giấy Hưng Hà, Công ty CP giấy Việt Trì…. Cùng với đó các dự án đầu tư mới đã được cấp phép đầu tư cũng đang bước vào giai đoạn chuẩn bị mặt bằng và tiến hành xây dựng và lắp máy như: Công ty TNHH giấy VinaKraft (tại Vĩnh Phúc), Công ty TNHH Cheng Loong (Bình Dương), Công ty CP giấy Hoàng Văn Thụ, Công ty CP giấy Hoa Lư, Công ty CP giấy Hoàng Hà Hải Phòng, Công ty CP giấy Thành Dũng…

Năm 2021 đã qua đi, một năm khó khăn đối phó với đại dịch Covid của cả nền kinh tế Việt Nam nói chung, cũng như của các doanh nghiệp Ngành giấy, của Văn phòng Hiệp hội nói riêng. Văn phòng đã thực hiện được nhiều việc lớn, có ý nghĩa và có giá trị đối với Ngành, đối với doanh ngiệp như: Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong bối cảnh Covid, gia hạn giấy phép nhập khẩu phế liệu; Kiến nghị, đề xuất cho Nghị định, Quy chuẩn, Tiêu chuẩn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; Xây dựng chiến lược Ngành; Thực hiện các nhiệm vụ, đề tài khoa học công nghệ…, cũng như một số các công việc được phân công khác. Mặc dù vậy, vẫn còn những tồn tại khách quan và chủ quan như không thể tổ chức được các Hội nghị, Hội thảo đã lên kế hoạch, đã dày công chuẩn bị cả về nội dung cũng như các công việc hậu cần kỹ thuật…

Bước sang năm 2022, một năm nữa đang chờ đón phía trước, Văn phòng cũng có những phương hướng cho hoạt động của mình, tiếp tục thực hiện tốt các công việc thường xuyên của Văn phòng, sẵn sàng tổ chức các hội nghị, hội thảo khi điều kiện cho phép, thực hiện các công tác chuyên môn, các nhiệm vụ, đề tài khoa học công nghệ được giao.

Dịch Covid vẫn còn ảnh hưởng rất nặng nề tới đời sống chung của xã hội, việc hồi phục và phát triển trở lại sau đại dịch là cả một giai đoạn đầy cam go phía trước, nhưng với tinh thần trách nhiệm Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam sẽ luôn đồng hành cùng với doanh nghiệp, là đại diện đáng tin cậy và có uy tín của cộng đồng doanh nghiệp Ngành giấy Việt Nam./.

     >>> Chuỗi cung ứng toàn cầu có thể dịch chuyển khỏi Trung Quốc

BAN BIÊN TẬP

(Bài được trích trong tạp chí Công nghiệp Giấy số Tết 2022) 

Chuỗi cung ứng toàn cầu có thể dịch chuyển khỏi Trung Quốc

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã phải chứng kiến sự rời đi của hàng loạt nhà máy sản xuất lớn thuộc các tập đoàn nước ngoài để đến các quốc gia có ưu đãi và chi phí tốt hơn như khu vực Đông Nam Á. Những lo ngại về đảm bảo an toàn chuỗi cung ứng đã khiến nhiều quốc gia phát triển như Hoa Kỳ và Nhật Bản đẩy mạnh việc giảm phụ thuộc vào các trung tâm sản xuất đặt tại Trung Quốc.

Bên cạnh đó, do diễn biến khó lường của đại dịch Covid-19, áp lực lạm phát tăng cao, áp lực thắt chặt chính sách tiền tệ và sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc có thể tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại quốc tế.

Với việc Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có hiệu lực vào ngày 1/1/2022 vừa qua, giới phân tích nhận định Trung Quốc có thể đạt được một số lợi thế chiến lược trong hoạt động sản xuất chế tạo. Đây là hiệp định thương mại tự do đa phương có quy mô lớn đầu tiên mà Trung Quốc ký kết, đặt nền tảng thể chế hóa cho việc xây dựng khu vực thương mại tự do có quy mô lớn nhất toàn cầu, có ý nghĩa cột mốc rất quan trọng.

Cơ cấu các nước thành viên của RCEP tương đối đa dạng, vừa có các nền kinh tế phát triển (Australia, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…), vừa có các thị trường mới nổi (Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia…), đồng thời còn có cả những nước thu nhập tương đối thấp (Myanmar, Campuchia…).

Về quy tắc nguồn gốc xuất xứ, RCEP thực hiện quy tắc tích lũy khu vực thống nhất, giúp thành phần giá trị về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm có thể tích lũy ở 15 nước thành viên, theo đó thành phần giá trị đến từ bất kỳ bên nào trong RCEP đều được tính trong nội khối.

Dưới thỏa thuận có liên quan, các công ty đa quốc gia có thể linh hoạt hơn trong việc bố trí không gian sản xuất trong khu vực, cũng như điều phối nguyên liệu sản xuất giữa các nước thành viên, thiết lập hệ thống phân công chuỗi sản xuất chính xác hơn và hoàn thiện hơn. Điều này không chỉ có lợi cho việc mở rộng thương mại giữa các thành viên RCEP, mà còn thúc đẩy hội nhập sâu hơn của chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong khu vực.

Là trung tâm chuỗi cung ứng của ngành chế tạo sản xuất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc có thể dựa vào nền tảng RCEP để thúc đẩy dịch chuyển một bộ phận sản xuất sang các nước đang phát triển khác trong khu vực phù hợp với nhu cầu nâng cấp ngành công nghiệp của mình. Đồng thời, Trung Quốc còn có thể được hưởng lợi từ việc khu vực thương mại tự do liên tục mở rộng và xu hướng hội nhập của thị trường lớn, từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giành thị phần lớn hơn trên thị trường giá trị gia tăng cao./.

VPPA (theo Tapchicongthuong.vn)

Công ty CP Giấy Hoàng Văn Thụ vận hành dây chuyền mới

Sau 14 tháng thi công xây dựng dự án đầu tư mở rộng suất, Công ty CP Giấy Hoàng Văn Thụ đã đưa vào vận hành dây chuyền mới công suất 100.000 tấn/năm.

Khổ rộng lưới xeo 5,8m. Tốc độ thiết kế 350-500m/ph. Sản phẩm là loại giấy kraft làm vỏ bao xi-măng, dải định lượng 70-90g/m2.

Ngày 20/01/2022 dây chuyền đã chạy ra những cuộn giấy đầu tiên.

   >>> Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới

VPPA

Hiệp ước Liên hợp quốc về chống ô nhiễm nhựa: Cam kết của các nhà sản xuất

Các bên ký kết đã thống nhất ủng hộ bản báo cáo trước đây của tổ chức WWF “Báo cáo nghiên cứu kinh doanh cho Hiệp ước Liên hợp quốc về vấn đề ô nhiễm nhựa”, bao gồm các nhà sản xuất và phân phối hàng đầu thế giới đồ uống, chất lỏng: Amcor, Berry, Coca-Cola, Mondelēz International, Mondi, Nestlé, Procter & Gamble, PepsiCo và Unilever.

Một hiệp ước mới của Liên hợp quốc là cần thiết và rất quan trọng nhằm thiết lập một tiêu chuẩn hành động chung cao cho tất cả các quốc gia tuân theo và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn đối với sản phẩm nhựa trên toàn cầu và trên quy mô lớn.

Quá trình chuyển đổi này yêu cầu các chính phủ phải điều chỉnh các biện pháp quản lý, áp dụng cho toàn bộ vòng đời của sản phẩm nhựa, không giới hạn phạm vi đàm phán chỉ để giải quyết các thách thức về quản lý chất thải.

Tuyên bố của các bên tham gia Hiệp ước Liên hiệp quốc đã “gửi một tín hiệu mạnh mẽ đến các nhà hoạch định chính sách rằng giờ đây họ có cơ hội chưa từng có để lật ngược tình thế ô nhiễm nhựa.

Ủy ban đàm phán liên chính phủ

Tuyên bố nêu bật ba vấn đề trọng tâm của ô nhiễm nhựa trên toàn cầu:

  • Vấn đề ô nhiễm nhựa là xuyên biên giới và dẫn đến những tác động tiêu cực đáng kể đến môi trường, xã hội và kinh tế toàn cầu.
  • Cần thiết phải có một phản ứng quốc tế đồng bộ, phối hợp tổng thể nhằm giải quyết các vấn đề căn bản, nhằm ngăn chặn rò rỉ nhựa vào tự nhiên một cách hiệu quả.
  • Nền kinh tế tuần hoàn đối với nhựa sẽ góp phần giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học, đồng thời mang lại những tác động kinh tế và xã hội tích cực.

Với ba vấn đề nêu trên, các bên ký kết thúc giục thành lập một Ủy ban Đàm phán Liên Chính phủ tại UNEA 5.2 để phát triển các sáng kiến ​​và mục tiêu chính sách. Tuyên bố kêu gọi thành lập Ủy ban Đàm phán Liên hợp tại ngay tại UNEA 5.2 ở Kenya.

Hiện nay, ô nhiễm nhựa không chỉ dừng lại ở bên trong phạm vi một quốc gia nào cả. Đó là một vấn đề toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp và chính phủ phải hợp tác với nhau về các giải pháp toàn cầu.

Tuyên bố này đánh dấu lần đầu tiên nhiều doanh nghiệp hàng đầu đến với nhau và kêu gọi một hiệp ước mạnh mẽ, ràng buộc về mặt pháp lý; trong đó đặt ra các quy tắc và quy định chung, thiết lập một sân chơi bình đẳng và tạo ra các điều kiện cần thiết để cung cấp các giải pháp toàn cầu được phối hợp.

Đề xuất chính sách

Các khuyến nghị của tuyên bố bao gồm việc thiết lập các chính sách ở các cấp độ khác nhau, có thể giữ cho sản phẩm nhựa vẫn lưu thông trong nền kinh tế, nhưng môi trường không bị ảnh hưởng, đồng thời giảm sản xuất và sử dụng nhựa nguyên sinh. Các chính sách này cũng sẽ tách việc sản xuất nhựa khỏi việc tiêu thụ tài nguyên hóa thạch.

Ủy ban cũng sẽ tập trung vào việc thiết lập một định hướng rõ ràng để gắn kết các chính phủ, doanh nghiệp và xã hội dân sự đằng sau sự hiểu biết chung về các nguyên nhân gây ô nhiễm nhựa và một cách tiếp cận chung để giải quyết chúng.

Đối với các công ty và nhà đầu tư, định hướng rõ ràng này sẽ tạo ra một sân chơi bình đẳng và ngăn chặn sự chắp vá của các giải pháp rời rạc, đồng thời tạo ra các điều kiện thuận lợi, phù hợp để làm cho nền kinh tế tuần hoàn hoạt động trên thực tế và trên quy mô lớn.

Tạo ra một chính sách quản trị mạnh mẽ, nhằm đảm bảo sự tham gia và tuân thủ của các quốc gia cũng sẽ là điều cần thiết. Nếu một ủy ban có thể đảm bảo một cơ chế để điều này có thể xảy ra, thì ủy ban đó sẽ “tạo điều kiện đầu tư để mở rộng quy mô đổi mới, cơ sở hạ tầng và kỹ năng ở các quốc gia và ngành cần sự hỗ trợ quốc tế nhất. Các bên ký kết chính cũng chính là những người gây ô nhiễm ​​lớn về nhựa.

Điểm cốt lõi

Tuyên bố cho biết, hiên nay thế giới đang ở “thời điểm quan trọng để thiết lập một hiệp ước đầy tham vọng của Liên hợp quốc nhằm thúc đẩy sự hợp tác cho các giải pháp hệ thống và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn trên toàn cầu.”

Tuy nhiên, trong khi có sự ủng hộ rộng rãi giữa các nhà hoạt động và các chuyên gia cho hiệp ước nhựa toàn cầu, thì nhiều công ty đã ký kết lại bị đổ lỗi là những người gây ô nhiễm nhựa phần lớn trên thế giới.

Theo Innova Market Insights, 44% người tiêu dùng toàn cầu nói rằng các công ty sản xuất và cung cấp đồ uống, chất lỏng đóng góp đáng kể vào cuộc khủng hoảng ô nhiễm nhựa toàn cầu, trong đó hành vi của người tiêu dùng là nguyên nhân chính (64%).

Theo báo cáo năm 2020, Tổ chức Break Free from Plastic đã nêu tên Coca-Cola, PepsiCo, Unilever, Nestlé, Procter & Gamble, Mondelēz International, Philip Morris International, Danone, Mars và Colgate-Palmolive là mười tác nhân gây ô nhiễm nhựa hàng đầu thế giới.

Tuy nhiên, hiện nay tất cả các công ty này lại đã ký lời kêu gọi một Hiệp ước Liên hiệp quốc. Điều đó rõ ràng rằng, Hiệp ước là cơ hội hiện hữu và duy nhất hiện nay để thúc đẩy và kiểm soát tình trạng ô nhiễm nhựa trên toàn thế giới./.

    >>> Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới

VPPA (Theo www.packaginginsights.com)

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới

Tác động của đại dịch Covid-19 đến ngành bao bì

Trong những năm qua ngành bao bì đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam và được đánh giá là ngành sản xuất có nhiều tiềm năng với những cơ hội đến từ sự phát triển của ngành công nghiệp, thương mại điện tử, truyền thông kỹ thuật số, và các Hiệp định thương mại được ký kết.

Theo FiinGroup, bao bì là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh tại thị trường Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng 13,4%/năm trong giai đoạn 2015-2020. Nhìn chung, thị trường vật liệu bao bì đóng gói được chia thành các phân khúc: giấy và bìa cứng, nhựa, kim loại, thủy tinh, gỗ, dệt may và các vật liệu thích hợp khác như xốp, da… Trong đó, phần lớn doanh thu bán hàng thuộc về phân khúc bao bì nhựa, bao bì giấy và thùng carton với trên 80%.

Với ngành bao bì, đại dịch Covid-19 xuất hiện từ đầu năm 2020 mang đến những tác động tích cực lẫn tiêu cực theo sự thay đổi hành vi người tiêu dùng. Giống như trong nhiều ngành công nghiệp khác, đại dịch Covid-19 đã tạo ra sự gián đoạn lớn trong lĩnh vực bao bì do các biện pháp phong tỏa, hạn chế đi lại, thiếu lực lượng lao động. Chuỗi cung ứng bị đứt gãy, nguyên liệu bị thiếu hụt, giá nguyên liệu tăng cao nhưng nguyên liệu sản xuất chủ yếu từ nhập khẩu và chiếm 60%-70% giá thành.

Bức tranh ngành bao bì trong năm qua là sự phân hóa theo nhóm ngành hàng và vật liệu đóng gói. Xét theo nhóm ngành hàng, các ngành hàng tiêu dùng, dược phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, thương mại điện tử tăng trưởng mạnh mẽ, dẫn đến phân khúc bao bì đóng gói dược phẩm, thực phẩm đóng gói, dán nhãn chất khử trùng, bao bì xà phòng, chất tẩy rửa và nước rửa tay hiện có nhu cầu cao. Mặt khác, nhu cầu về bao bì cho các sản phẩm sang trọng và công nghiệp lại có xu hướng giảm.

Chia theo nhóm vật liệu, bao bì mềm là một trong những lĩnh vực ít bị ảnh hưởng nhất do bao bì thực phẩm chiếm tỷ trọng cao, đang được duy trì tốt. Bao bì nhựa cứng cũng có sự phát triển tốt trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống, nhưng ở lĩnh vực khác bao gồm bao bì nhựa công nghiệp, đồ trang điểm/mỹ phẩm và hàng tiêu dùng khác đã gặp khó khăn hơn. Do nhu cầu đóng gói các sản phẩm phụ trợ, phục vụ việc bán hàng online và phân phối trực tiếp cùng hoạt động xuất khẩu tăng trưởng, đặc biệt là đối với các ngành có tỷ trọng xuất khẩu cao như dệt may, da giày, thủy sản, linh kiện, thiết bị điện tử v.v giúp cho phân khúc giấy bao bì, hộp giấy, thùng carton có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Bao bì kim loại cũng ghi nhận những kết quả tích cực khi người tiêu dùng chuyển sang tích trữ thực phẩm lâu dài do hậu quả của đại dịch. Bao bì thủy tinh đã bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa khách sạn và nhà hàng, và chỉ được bù đắp ở một mức độ nào đó bằng doanh số bán đồ uống thông qua bán lẻ cao hơn. Ở phân khúc cao cấp, bao bì thủy tinh đã bị ảnh hưởng bởi sự suy giảm lớn về nhu cầu từ ngành mỹ phẩm như nước hoa.

Doanh nghiệp duy trì tăng trưởng doanh thu lợi nhuận

Kết quả khảo sát của Vietnam Report về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao bì dưới tác động của đại dịch Covid-19 cho thấy một bức tranh nhiều màu sắc trong tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, với 37,5% doanh nghiệp cho rằng tình hình kinh doanh xấu đi một chút; 25% doanh nghiệp không bị ảnh hưởng; 25% doanh nghiệp đánh giá tốt hơn một chút và 12,5% doanh nghiệp phản hồi tốt hơn nhiều.

Tác động của đại dịch Covid-19 đến doanh nghiệp Bao bì trong năm 2021

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các doanh nghiệp Bao bì, tháng 11/2021

Thị trường tiêu thụ của nhiều nhóm bao bì thuận lợi, khiến doanh thu của nhiều doanh nghiệp tăng trưởng cao, nhưng biến động tăng giá của giá nguyên liệu đầu vào, tăng chi phí phát sinh do dịch Covid khiến biên lợi nhuận bị thu hẹp, tỷ lệ doanh nghiệp có tăng trưởng doanh thu cao hơn so với nhóm tăng trưởng lợi nhuận. Số liệu thống kê sơ bộ của Vietnam Report cho thấy trong 16 doanh nghiệp bao bì niêm yết có 15 doanh nghiệp tăng trưởng doanh thu 9 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ, và chỉ có 7 doanh nghiệp tăng trưởng lợi nhuận.

Tuy nhiên, có những doanh nghiệp vẫn có sự tăng trưởng mạnh về doanh thu và lợi nhuận do 3 yếu tố chính: có lợi thế chủ động được nguyên liệu đầu vào, tự cung ứng phần lớn nguyên liệu cho nhà máy sản xuất bao bì, khiến biên lợi nhuận gộp của những doanh nghiệp này cao hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành; một số doanh nghiệp có công nghệ sản xuất bao bì từ hạt nhựa PP tái sinh (tái chế từ bao xi măng có nguồn cung trong nước dồi dào), chi phí nguyên liệu ít bị ảnh hưởng bởi biến động giá hạt nhựa trên thị trường thế giới; nhiều doanh nghiệp có chiến lược quản trị tốt, nhập khẩu với số lượng lớn nên chi phí nhập khẩu tương đối tốt.

Bên cạnh những tác động tiêu cực, Covid-19 cũng tạo ra thêm những cơ hội phát triển cho ngành bao bì Việt Nam, đẩy nhanh đổi mới sáng tạo, số hóa, mở rộng quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ ở nhiều phân khúc bao bì thuận lợi, đặc biệt là sự đánh giá cao hơn của xã hội về vai trò tích cực của bao bì. Tuy nhiên, để biến cơ hội thành hiện thực, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần thích ứng nhanh, có phương án phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, đảm bảo các yêu cầu ngày cao về chất lượng và mẫu mã của bao bì, bảo quản tốt, tiện lợi, thông minh hơn, và đáp ứng truy xuất được nguồn gốc rõ ràng.

5 yếu tố định hình xu hướng ngành bao bì trong thời kỳ bình thường mới

Theo đánh giá và phân tích của các chuyên gia Vietnam Report, xu hướng của ngành bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo được định hình bởi 5 yếu tố: Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19; Tính bền vững và những chính sách quy định về môi trường, an toàn thực phẩm; Sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng; Sự phát triển của thương mại điện tử; Sự phát triển công nghệ.

5 yếu tố định hình xu hướng của ngành bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới
Nguồn: Vietnam Report

Động lực và tiềm năng tăng trưởng của ngành Bao bì

Theo đánh giá của các chuyên gia và doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report, 6 biến số ảnh hưởng nhất đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp bao bì, bao gồm: Sự thay đổi trong hành vi người tiêu dùng; Sự biến động của giá và nguồn nguyên liệu, phụ gia; Sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nội – ngoại; Các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết; Khả năng hồi phục của nền kinh tế; Sự tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ và cải tiến quy trình sản xuất.

Hơn 80% chuyên gia và doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report nhận định trong năm 2022, ngành bao bì sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng và có thể tăng trưởng hơn một chút so với năm 2021. Ngành bao bì trong thời gian tới được dự báo sẽ có nhiều động lực thúc đẩy khi mà Việt Nam và nhiều nước là thị trường xuất khẩu chính của doanh nghiệp bao bì cũng chuyển sang chiến lược sống chung với Covid, nền kinh tế có nhiều triển vọng phục hồi trong năm 2022, cùng với đó là nhiều người có việc làm và mua nhiều hàng hóa tiêu dùng hơn sẽ mở ra cơ hội tăng trưởng của ngành bao bì.

Công nghiệp/vận chuyển là ứng dụng đóng gói cuối cùng lớn nhất, chiếm 41,6% doanh số bán hàng thế giới vào năm 2020, tiếp theo là thực phẩm với 29,6% và đồ uống với 13,9%. Tại Việt Nam, thống kê sơ bộ cho thấy bao bì đóng gói thực phẩm chiếm 30%-50%; điện – điện tử chiếm 5%-10%; hóa dược phẩm từ 5%-10%. Sự phát triển của ngành hàng thực phẩm của Việt Nam là tác nhân thúc đẩy lĩnh vực Bao bì đóng gói luôn đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15% -20%/năm, riêng bao bì nhựa đã đạt mức tăng trưởng 25%/năm và chiếm tỷ trọng doanh thu cao nhất trong cơ cấu ngành nhựa (38% – 39%).

Kết quả khảo sát Vietnam Report về nhu cầu với một số phân khúc sản phẩm theo ngành hàng cho thấy xu hướng tiếp tục tăng trưởng trong năm 2022 cho thị trường xuất khẩu, ngành hàng thực phẩm – đồ uống, điện tử, dược phẩm, bao bì xi măng. Lĩnh vực dược phẩm được dự báo sẽ tăng doanh số bán hàng đóng gói với tốc độ nhanh nhất, tiếp theo là điện tử và thực phẩm đồ uống. Trong lĩnh vực công nghiệp, doanh số bán hàng container rời trung gian (IBC) được dự đoán sẽ tăng với tốc độ nhanh nhất, nhờ nhu cầu về thùng phuy nhựa và thép tăng do độ bền và khả năng tái sử dụng của chúng.

Đánh giá nhu cầu của một số phân khúc sản phẩm bao bì trong năm 2022

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới
Nguồn: Vietnam Report khảo sát chuyên gia và các doanh nghiệp bao bì, tháng 11/2021

Các Hiệp định thương mại tự do EVFTA, CPTPP, RCEP được ký kết và đi vào hiệu lực dự báo sẽ tiếp tục mở ra cơ hội xuất khẩu cho các ngành hàng sử dụng nhiều bao bì như nông, lâm, thủy sản, công nghiệp chế biến v.v, cùng với nhu cầu về bao bì chất lượng cao trên thế giới rất lớn như giấy bao bì cao cấp (tráng phủ), điều đó mang lại cơ hội xuất khẩu lớn cho ngành bao bì của Việt Nam.

Dư địa tăng trưởng của ngành bao bì tại Việt Nam trong thời gian tới vẫn còn lớn từ việc nhiều doanh nghiệp bao bì đã nắm bắt cơ hội tăng trưởng bằng việc mở thêm nhà máy và nâng cao chất lượng sản phẩm. Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội Giấy, Bột giấy Việt Nam (VPPA) và Bao Bì Toàn Cầu, giai đoạn cuối năm 2020 đầu năm 2021 có 8 nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp đưa vào vận hành với tổng công suất thiết kế khoảng 1,4 triệu tấn/năm. Sự tăng đầu tư mở rộng sản xuất từ phía doanh nghiệp sẽ không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, đặc biệt là trong thời kỳ phục hồi kinh tế sau đại dịch, mà còn phục vụ xuất khẩu, và bắt nhịp ngay làn sóng khi chủ sở hữu nhiều thương hiệu cải tiến việc ra mắt sản phẩm của họ trong thời kỳ bình thường tiếp theo.

Trong trung và dài hạn, các chuyên gia trong ngành nhận định tăng trưởng trong ngành bao bì hiện đang được thúc đẩy bởi hai xu hướng lớn là tăng dân số toàn cầu và tầng lớp trung lưu ngày càng mở rộng. So với con số 7,8 tỷ người hiện nay, dân số toàn cầu được dự đoán sẽ đạt 9,2 tỷ vào năm 2040. Trong khi đó, tầng lớp trung lưu toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng 66% từ 3 tỷ lên hơn 5 tỷ trong 10 năm tới, với những người sống lâu hơn, khỏe mạnh và chất lượng cuộc sống tốt hơn. Khi quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày một tăng.

Xét theo vật liệu đóng gói, bao bì giấy và thùng carton được dự báo sẽ tăng doanh số bán, theo dự đoán của VPPA, trong 5-10 năm tới, nhu cầu tiêu dùng bao bì giấy dự báo tăng trưởng 14%-18%/năm. Trong giai đoạn 5 năm tới, đại dịch sẽ tiếp tục có ảnh hưởng và phân khúc vật liệu phát triển nhanh thứ hai sẽ là nhựa cứng và mềm. Mặc dù loại chất liệu này thường được coi là những loại bao bì kém bền vững nhất, nhưng cả hai đều sẽ được hưởng lợi từ việc đổi mới thiết kế và một loạt các công nghệ tái chế mới, cả cơ học và hóa học trong thời gian tới, tạo ra sự tiện lợi, hiệu quả, chi phí thấp khi người tiêu dùng chuyển sang mua nhiều hàng hóa đóng gói hơn.

Top 5 giải pháp của doanh nghiệp bao bì

Để đạt được thành công trong bối cảnh nền kinh tế biến động và nhiều xu hướng phát triển vượt bậc sẽ đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần có một tư duy đổi mới kết hợp với các lựa chọn chiến lược đúng đắn. Sự tiếp cận chủ động sẽ giúp các công ty đi đầu trong các diễn biến của thị trường, đồng thời tạo cơ hội trở thành đối tác quan trọng của khách hàng, các chủ thương hiệu.

Kết quả khảo sát của Vietnam Report đã chỉ ra top 5 giải pháp của doanh nghiệp bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo. Đó là: Tăng cường đầu tư công nghệ, số hóa các hoạt động vận hành của doanh nghiệp; Tăng cường các biện pháp quản trị rủi ro tài chính, chuỗi cung ứng; Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với chuyển đổi số; Mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing; Thực hiện chiến lược phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Kết quả khảo sát cũng cho thấy sự thay đổi trong chiến lược hành động của doanh nghiệp bao bì, nếu như năm 2020 phương án Mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing là giải pháp được nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhất, thì năm nay Tăng cường số hóa các hoạt động vận hành là giải pháp được ưu tiên hàng đầu với gần 80% doanh nghiệp lựa chọn, gia tăng đáng kể so với kết quả khảo sát năm trước (năm 2020 là 57,14%). Ngành công nghiệp bao bì áp dụng chuyển đổi số còn hạn chế, có 20% doanh nghiệp khảo sát cho biết còn đang trong giai đoạn thiết kế chuyển đổi số. Với cách tiếp cận đúng đắn và trọng tâm thực hiện, các công ty bao bì sẽ có thể nâng cao hiệu quả về chi phí, tăng trưởng và năng suất do kỹ thuật số mang lại.

Top 5 giải pháp của doanh nghiệp Bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp ngành bao bì trong bối cảnh mới
Nguồn: Vietnam Report khảo sát các doanh nghiệp bao bì, tháng 11/2021

Việc chuyển đổi kỹ thuật số đã và sẽ tiếp tục ảnh hưởng rất nhiều đến công nghệ của ngành đóng gói, cùng với đó đầu tư vào con người cũng là một cách để nâng cao hiệu quả sản xuất bao bì. Nhiều doanh nghiệp bao bì cho biết một trong những khó khăn mà hầu hết doanh nghiệp gặp phải khi tiếp cận và ứng dụng chuyển đổi số trong thời gian qua đó là việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng và vận hành hoạt động chuyển đổi số. Theo đó, hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thích ứng với chuyển đổi là một trong 5 giải pháp quan trọng các doanh nghiệp bao bì lựa chọn. Bên cạnh đó, 40% doanh nghiệp lựa chọn thực hiện chiến lược phát triển bền vững trong thời gian tới thông qua tăng sử dụng nguyên liệu có thể tái tạo và tái chế như thu gom bao bì giấy, xây dựng nhà máy tái chế; nâng cao công tác quản trị; liên kết hợp tác trong chuỗi cung ứng, giảm lượng khí thải cac bon./.

Theo https://kinhtevadubao.vn/

Nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu, năng lượng sản xuất giấy bao bì công nghiệp bằng các giải pháp kỹ thuật và quản lý vận hành

       Vừa qua, Bộ Công Thương đã tiến hành nghiệm thu nhiệm vụ “Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp kỹ thuật và quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu, năng lượng trong quá trình sản xuất tại các nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp quy mô dưới 50.000 tấn/năm”. Đây là nhiệm vụ thuộc Đề án ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá trình tái cơ cấu ngành Công Thương phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 do Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylô chủ trì thực hiện.
       Những nhiệm vụ trọng tâm của Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, có xét đến năm 2025, là phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam theo hướng bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường, áp dụng công nghệ tân tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng.
       Đối với các nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp có quy mô dưới 50.000 tấn/năm, thiết bị chủ yếu được sản xuất từ năm 2000 trở về trước. Tuy thường xuyên được cải tạo, tu bổ, nhưng nhiều công đoạn vẫn hoạt động bán tự động, vận hành dây chuyền sản xuất được thực hiện theo kinh nghiệm của người vận hành, thiếu sự chuẩn hóa và ban hành các quy trình vận hành chi tiết. Đặc biệt là đối với mỗi thiết bị cụ thể có độ ổn định vận hành không cao, do đó gặp khó khăn trong việc duy trì công năng ổn định, không kịp thời điều chỉnh dẫn đến mất ổn định về chất lượng sản phẩm, thất thoát nguyên vật liệu, tiêu hao năng lượng lớn. Để giải quyết được bài toán nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất, vệ sinh an toàn và bảo vệ môi trường, để đảm bảo chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cần phải triển khai đồng bộ, kết hợp các giải pháp kỹ thuật và quản lý, kiểm soát công nghệ khả thi, hiệu quả.
Khảo sát phân loại chất lượng nguyên liệu tại Công ty CP Giấy Mục sơn
       Với mục tiêu của Nhiệm vụ là xây dựng được một số giải pháp kỹ thuật và quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu, năng lượng trong quá trình sản xuất tại các nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp quy mô dưới 50.000 tấn/năm, sau thời gian triển khai thực hiện, nhóm nghiên cứu đã khảo sát, đánh giá thực trạng vận hành sản xuất tại 08 nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp điển hình trong nước, đã đánh giá hiện trạng sử dụng nguyên liệu, năng lượng và quản lý sản xuất, từ đó xây dựng, đề xuất được 13 giải pháp về kỹ thuật và 03 giải pháp về quản lý vận hành, giúp các doanh nghiệp sản xuất sử dụng hiệu quả nguyên liệu, năng lượng.
       Một trong những giải pháp kỹ thuật, quản lý đã được triển khai áp dụng tại Công ty cổ phần Giấy Mục Sơn (công suất 42.000 tấn/năm), như sử dụng xơ sợi trung bình làm lớp mặt của giấy testliner; sử dụng chế độ nghiền phù hợp; sử dụng cô đặc dạng đĩa thay cho cô đặc lưới nghiêng; sử dụng kết hợp keo chống thấm bề mặt với AKD; sử dụng sàng thải đuôi T2D để xử lý bột thải đuôi sau sàng thô; tận dụng triệt để nước làm kín, làm mát; bảo ôn đường ống; xây dựng quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm; hướng dẫn phân tích và quy trình vận hành máy móc thiết bị. Kết quả bước đầu đem lại cho doanh nghiệp là sản xuất ổn định, nâng cao năng suất và chất lượng giấy bao bì công nghiệp; hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu hóa chất phụ gia trong quá trình áp dụng giải pháp như: sử dụng xơ sợi trung bình cho lớp mặt, kết hợp với điều kiện nghiền, cô đặc dạng đĩa chi phí giảm 305.712 VNĐ/tấn sản phẩm; chi phí hóa chất: màu giảm 23.220 VNĐ/tấn sản phẩm, chống thấm giảm 4.500 VNĐ/tấn sản phẩm; hiệu quả sử dụng năng lượng giảm khoảng 44.231 VNĐ/tấn sản phẩm khi sử dụng sàng thải đuôi T2D, bảo ôn đường ống hơi, sử dụng nước làm kín, làm mát (tổng chi phí giảm khoảng 6-7%). Ngoài ra vấn đề về môi trường mang lại hiệu quả rõ rệt sau khi áp dụng giải pháp thể hiện qua thông số nước thải như: COD: 8mg/l; BOD5: 6,4 mg/l; độ màu: 99,25 Pt-Co; pH nước thải 7,6. Hệ thống chuẩn bị bột và năng suất máy xeo đạt 96% so với năng suất thiết kế. Các giải pháp quản lý giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc quản lý sản xuất, phân loại sản phẩm ngay từ công đoạn cắt cuộn lại, giảm thiểu thời gian dừng máy do các sự cố (tắc sàng.v.v), nâng cao công suất chạy máy.
        “Đây là một trong những nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được thực hiện từ khảo sát, đánh giá, nghiên cứu , đến ứng dụng thực tế doanh nghiệp. Với mục tiêu đưa ra được các giải pháp kỹ thuật, quản lý cần thiết và khả thi áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất bao bì công nghiệp quy mô dưới 50.000 tấn/năm, mặc dù đã gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid -19 trong thời gian thực hiện nhiệm vụ KHCN, nhưng nhờ sự hỗ trợ từ phía doanh nghiệp ứng dụng là Công ty cổ phần Giấy Mục Sơn, mà nhóm đã hoàn thành tốt được nhiệm vụ”, chủ nhiệm nhiệm vụ KS. Nguyễn Đình Hải cho biết.
       Hội đồng nghiệm thu đã nhất trí đánh giá cao kết quả thực hiện Nhiệm vụ và những nỗ lực của nhóm nghiên cứu. Sản phẩm của Nhiệm vụ đầy đủ về chủng loại, số lượng, khối lượng so với hợp đồng đã ký kết với Bộ Công Thương. Đặc biệt, một trong những kết quả của Nhiệm vụ đã được ứng dụng ngay vào thực tiễn sản xuất và được doanh nghiệp đánh giá có hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Hội đồng nghiệm thu cũng đề nghị tiếp tục hoàn tất các thủ tục và sớm đưa các kết quả nghiên cứu đến gần hơn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành Công nghiệp Giấy.
TS. Dương Xuân Diêu – Vụ Khoa học và Công nghệ
(Nguồn Khoa học công nghệ công thương)

Thị trường bột giấy Châu Á: Nguồn cung gián đoạn, giá BEK, UKP tăng tại Trung Quốc

Do gián đoạn nguồn cung và giá giao dịch kỳ hạn liên tục tăng đã thúc đẩy các nhà cung cấp tìm kiếm mức tăng nhiều hơn đối với bột giấy kraft gỗ mềm và gỗ cứng tẩy trắng (BSK và BHK) tại thị trường Trung Quốc và Châu Á khác.

Arauco (Chile) và và Suzano (Brazil) – các nhà cung cấp bột giấy lớn trên thế giới đều có thông báo tăng giá đối với ba loại bột giấy quan trọng trên thị trường cho khách hàng Trung Quốc và Châu Á, có hiệu lực với các đơn đặt hàng vào tháng 02/2022.

Arauco – nhà sản xuất bột giấy lớn thứ hai thế giới, công bố giá bột gỗ thông radiata đã tẩy trắng (BKP) ở mức 840 USD/tấn, tăng 70 USD/tấn so với giá BKP của tháng 1/2022. Ở các loại bột khác, Arauco thông báo tăng 50 USD/tấn đối với bột BEK, lên 655 USD/tấn.

Đối với bột giấy kraft chưa tẩy trắng (UKP), Arauco thông báo mức tăng 20 USD/tấn, lên mức 800 USD/tấn, CIF, Trung Quốc.

Tập đoàn Ilim cũng đã tăng giá bột BSK của Nga lên 70 USD/tấn, nâng mức giá cho loại này lên 840 USD/tấn.

Trước đó, Suzano – nhà cung cấp Brazil đã công bố mức tăng 50 USD/tấn đối với bột BHK tại Trung Quốc và các thị trường châu Á khác. Hiện nay mức giá bột BHK Nam Mỹ đang ổn định ở mức 580-600 USD/tấn, dự kiến sẽ có mức giá mới từ 600-650 USD/tấn.

Trong khi các hợp đồng tương lai đang tạo đà cho giá BSK, phân khúc BHK bị ảnh hưởng chủ yếu bởi việc giao hàng muộn từ Nam Mỹ. Các vấn đề khó khăn về logistics đang diễn ra ở cả hai đầu của lô hàng, ở Brazil và ở Trung Quốc đang là nguyên nhân để các nhà cung cấp tìm cách tăng giá bột giấy tại thị trường khu vực này./.

VPPA tổng hợp

Top 10 Công ty Bao bì uy tín năm 2021

Danh sách Top 10 Công ty Bao bì uy tín năm 2021 – Nhóm ngành Nhựa
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty Bao bì uy tín năm 2021, tháng 12 năm 2021

Tác động của đại dịch Covid-19 đến ngành Bao bì

Trong những năm qua ngành bao bì đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam và được đánh giá là ngành sản xuất có nhiều tiềm năng với những cơ hội đến từ sự phát triển của ngành công nghiệp, thương mại điện tử, truyền thông kỹ thuật số, và các Hiệp định thương mại được ký kết. Theo FiinGroup, bao bì là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh tại thị trường Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng 13,4%/năm trong giai đoạn 2015-2020. Nhìn chung, thị trường vật liệu bao bì đóng gói được chia thành các phân khúc: Giấy và bìa cứng, nhựa, kim loại, thủy tinh, gỗ, dệt may và các vật liệu thích hợp khác như xốp, da, v.v. Trong đó, phần lớn doanh thu bán hàng thuộc về phân khúc bao bì nhựa, bao bì giấy và thùng carton với trên 80%. Vì vậy, trong phạm vi của nghiên cứu về ngành bao bì, Vietnam Report chỉ tập trung phân tích các khía cạnh liên quan đến hai vật liệu này.

Đại dịch Covid-19 xuất hiện từ đầu năm 2020 và cho đến nay vẫn đang diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng đến nhiều ngành nghề và đời sống xã hội trên toàn thế giới, đối với ngành bao bì có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực theo sự thay đổi hành vi người tiêu dùng. Giống như trong nhiều ngành công nghiệp khác, đại dịch Covid-19 đã tạo ra sự gián đoạn lớn trong lĩnh vực bao bì do các biện pháp phong tỏa, hạn chế đi lại, thiếu lực lượng lao động. Chuỗi cung ứng bị đứt gãy, nguyên liệu bị thiếu hụt, giá nguyên liệu tăng cao nhưng nguyên liệu sản xuất chủ yếu từ nhập khẩu và chiếm 60%-70% giá thành. Bức tranh ngành bao bì trong năm qua là sự phân hóa theo nhóm ngành hàng và vật liệu đóng gói. Xét theo nhóm ngành hàng, các ngành hàng tiêu dùng, dược phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, thương mại điện tử tăng trưởng mạnh mẽ, dẫn đến phân khúc bao bì đóng gói dược phẩm, thực phẩm đóng gói, dán nhãn chất khử trùng, bao bì xà phòng, chất tẩy rửa và nước rửa tay hiện có nhu cầu cao. Mặt khác, nhu cầu về bao bì cho các sản phẩm sang trọng và công nghiệp lại có xu hướng giảm.

Xét theo tính chất vật liệu: Bao bì mềm là một trong những lĩnh vực ít bị ảnh hưởng nhất do bao bì thực phẩm chiếm tỷ trọng cao, đang được duy trì tốt. Bao bì nhựa cứng cũng có sự phát triển tốt trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống, nhưng ở lĩnh vực khác bao gồm bao bì nhựa công nghiệp, đồ trang điểm/mỹ phẩm và hàng tiêu dùng khác đã gặp khó khăn hơn. Do nhu cầu đóng gói các sản phẩm phụ trợ, phục vụ việc bán hàng online và phân phối trực tiếp cùng hoạt động xuất khẩu tăng trưởng, đặc biệt là đối với các ngành có tỷ trọng xuất khẩu cao như dệt may, da giày, thủy sản, linh kiện, thiết bị điện tử v.v giúp cho phân khúc giấy bao bì, hộp giấy, thùng carton có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Bao bì kim loại cũng ghi nhận những kết quả tích cực khi người tiêu dùng chuyển sang tích trữ thực phẩm lâu dài do hậu quả của đại dịch. Bao bì thủy tinh đã bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa khách sạn và nhà hàng, và chỉ được bù đắp ở một mức độ nào đó bằng doanh số bán đồ uống thông qua bán lẻ cao hơn. Ở phân khúc cao cấp, bao bì thủy tinh đã bị ảnh hưởng bởi sự suy giảm lớn về nhu cầu từ ngành mỹ phẩm như nước hoa.

Kết quả khảo sát của Vietnam Report về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao bì dưới tác động của đại dịch Covid-19 cho thấy một bức tranh nhiều màu sắc trong tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, với 37,5% doanh nghiệp cho rằng tình hình kinh doanh xấu đi một chút; 25% doanh nghiệp không bị ảnh hưởng; 25% doanh nghiệp đánh giá tốt hơn một chút và 12,5% doanh nghiệp phản hồi tốt hơn nhiều.

Hình 1: Tác động của đại dịch Covid-19 đến doanh nghiệp Bao bì trong năm 2021 (Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các doanh nghiệp Bao bì, tháng 11/2021)

Thị trường tiêu thụ của nhiều nhóm bao bì thuận lợi, khiến doanh thu của nhiều doanh nghiệp tăng trưởng cao, nhưng biến động tăng giá của giá nguyên liệu đầu vào, tăng chi phí phát sinh do dịch Covid khiến biên lợi nhuận bị thu hẹp, tỷ lệ doanh nghiệp có tăng trưởng doanh thu cao hơn so với nhóm tăng trưởng lợi nhuận. Thống kê sơ bộ trong 16 doanh nghiệp bao bì niêm yết có 15 doanh nghiệp tăng trưởng doanh thu 9 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ, và chỉ có 7 doanh nghiệp tăng trưởng lợi nhuận. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp vẫn có sự tăng trưởng mạnh về doanh thu và lợi nhuận do 3 yếu tố chính: Một là, có lợi thế chủ động được nguyên liệu đầu vào, tự cung ứng phần lớn nguyên liệu cho nhà máy sản xuất bao bì, khiến biên lợi nhuận gộp của những doanh nghiệp này cao hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hai là, một số doanh nghiệp có công nghệ sản xuất bao bì từ hạt nhựa PP tái sinh (tái chế từ bao xi măng có nguồn cung trong nước dồi dào), chi phí nguyên liệu ít bị ảnh hưởng bởi biến động giá hạt nhựa trên thị trường thế giới. Ba là, nhiều doanh nghiệp có chiến lược quản trị tốt, nhập khẩu với số lượng lớn nên chi phí nhập khẩu tương đối tốt.

Bên cạnh những tác động tiêu cực, Covid-19 cũng tạo ra thêm những cơ hội phát triển cho ngành bao bì Việt Nam, đẩy nhanh đổi mới sáng tạo, số hóa, mở rộng quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ ở nhiều phân khúc bao bì thuận lợi, đặc biệt là sự đánh giá cao hơn của xã hội về vai trò tích cực của bao bì. Tuy nhiên, để biến cơ hội thành hiện thực, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần thích ứng nhanh, có phương án phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, đảm bảo các yêu cầu ngày cao về chất lượng và mẫu mã của bao bì, bảo quản tốt, tiện lợi, thông minh hơn, và đáp ứng truy xuất được nguồn gốc rõ ràng.

5 yếu tố định hình xu hướng của ngành bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo

Theo đánh giá và tổng hợp của Vietnam Report, xu hướng của ngành bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo được định hình bởi 5 yếu tố: (i) Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19; (ii) Tính bền vững và những chính sách quy định về môi trường, an toàn thực phẩm; (iii) Sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng; (iv) Sự phát triển của thương mại điện tử; (v) Sự phát triển công nghệ.

Hình 2: 5 yếu tố định hình xu hướng của ngành bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo (Nguồn: Vietnam Report)

Tính bền vững và những chính sách quy định về môi trường

Báo cáo của Ủy ban liên chính phủ về khí hậu tháng 8 năm 2021 đã chỉ ra, biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, phổ biến và ngày càng gia tăng với các hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện nhiều hơn. Trước sự biến đổi khí hậu, mối quan tâm đến tính bền vững trong kinh doanh được chú trọng hơn bao giờ hết, tập trung đặc biệt vào bao bì, chất thải tạo ra từ việc đóng gói thực phẩm, đồ uống và các sản phẩm tiêu dùng. Điều này được phản ánh trong các quy định của chính quyền trung ương và thành phố, thái độ của người tiêu dùng và các giá trị của chủ sở hữu thương hiệu được truyền đạt thông qua bao bì. Khi tính bền vững đã trở thành động lực chính cho người tiêu dùng, các thương hiệu ngày càng quan tâm đến bao bì bền vững, các vật liệu và thiết kế bao bì thể hiện cam kết của họ đối với môi trường.

Liên minh châu Âu (EU) đã đi tiên phong trong lĩnh vực này với định hướng hướng tới các nguyên tắc kinh tế tuần hoàn và dành một sự quan tâm đặc biệt với chất thải nhựa cùng khả năng tái chế. Một số chiến lược đang được tiến hành để giải quyết vấn đề này, bao gồm thay thế bằng các vật liệu thay thế, đầu tư vào phát triển nhựa sinh học, thiết kế bao bì để làm cho chúng dễ dàng xử lý hơn trong quá trình tái chế và cải thiện việc tái chế/xử lý chất thải nhựa.

Khi bao bì được thay đổi để thích ứng với các hoạt động bền vững, có thể có tác động sâu sắc đến thị trường. Nhiều nghiên cứu và phát triển đang tiến hành cải tiến công nghệ đóng gói theo hướng bền vững hơn, bao gồm cả việc tích hợp các vật liệu chế tạo nano. Thói quen mua hàng của người tiêu dùng có thể thay đổi dựa trên bao bì mới này. Các nhà sản xuất cần đảm bảo tất cả các lĩnh vực của doanh nghiệp phải được chuẩn bị sẵn sàng cho sự thay đổi này, để thích ứng với bao bì bền vững, và có sự điều hướng và quản lý phù hợp. Đây sẽ không phải là việc diễn ra chỉ một lần. Khi một cuộc cách mạng bền vững tiếp tục phát triển và công nghệ đóng gói được mở rộng, các nhà sản xuất sẽ phải tiếp tục thích ứng với những thay đổi, nhất là khi thế hệ Millennials và Gen-Z tiếp tục mở rộng vào lực lượng lao động và trở thành nhóm người tiêu dùng lớn hơn; tính bền vững, tái chế và các vấn đề môi trường sẽ tiếp tục được chú trọng.

Sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng

Một trong những xu hướng quan trọng của ngành bao bì trong những năm gần đây là sự thay đổi lớn trong tâm lý người tiêu dùng ủng hộ các giải pháp đóng gói thân thiện với môi trường. Trước khi Covid-19 xuất hiện, việc giảm sử dụng nhựa một lần ngày càng trở thành tiêu chuẩn. Nhiều chính phủ bắt đầu thiết lập các quy định và loại bỏ dần một số sản phẩm dùng một lần, đặc biệt là ở châu Âu. Nhưng khi đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng, mối quan tâm ngày càng tăng về vệ sinh và an toàn thực phẩm trong bối cảnh đại dịch đang đẩy vấn đề bền vững của vật liệu bao bì xuống thấp hơn trong danh sách ưu tiên của người tiêu dùng, điều này xảy ra ít nhất là trong ngắn hạn. Kết quả khảo sát người tiêu dùng của Vietnam Report trong tháng 8/2020 và 8/2021 cũng cho thấy có sự gia tăng về quan tâm nhiều hơn sự an toàn, hạn chế sử dụng bao bì tái chế; sẵn sàng chi trả cao hơn cho bao bì đóng gói đẹp mắt, hợp vệ sinh và an toàn sức khỏe. Những thay đổi hành vi kéo dài này là kết quả của đại dịch.

Hình 3: Sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng dưới tác động của đại dịch Covid-19 (Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát người tiêu dùng tháng 8/2020 và tháng 8/2021)

Do sự xuất hiện của đại dịch Covid-19, các nhà cung cấp thực phẩm mang đi và các nhà cung cấp khác đang dựa vào các lợi thế về vệ sinh bao bì nhựa để giảm bớt nỗi sợ hãi của người tiêu dùng về việc lây truyền vi rút. Một số thành phố trên thế giới đã hoãn việc ban hành lệnh cấm túi nhựa như một phản ứng trước những lo ngại về Covid-19 và những nghi vấn về độ an toàn của túi có thể tái sử dụng. Tại Anh đã trì hoãn lệnh cấm ống hút nhựa, máy khuấy và tăm bông vì những lý do tương tự. An toàn là ưu tiên hàng đầu của người tiêu dùng, vì vậy việc vệ sinh và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe khác trở nên rất quan trọng trong suốt thời gian nhiễm virus corona. Khi đại dịch qua đi, người ta có thể mong đợi sự chú trọng nhiều hơn đến sự an toàn của gói hàng, vì tâm lý của người tiêu dùng chuyển sang “sức khỏe và sự bảo vệ là trên hết”. Có khả năng điều này sẽ thay đổi quan điểm của người tiêu dùng về bao bì để tập trung vào vệ sinh hơn là tập trung vào tính bền vững. Không chỉ quan tâm đến tính an toàn, người tiêu dùng còn quan tâm đến tính mới mẻ và tiện lợi. Ngày càng có nhiều người tiêu thụ các sản phẩm như thực phẩm, đồ uống, dược phẩm khi đang di chuyển. Đây là nhu cầu ngày càng tăng đối với các giải pháp đóng gói thuận tiện và di động, trong đó lĩnh vực nhựa dẻo là đối tượng hưởng lợi chính. Các công ty bao bì cần phản ứng nhanh nhạy với những hành vi thay đổi của người tiêu dùng, chẳng hạn như phát triển bao bì có thể giúp giải quyết sở thích của thế hệ Millennials và Gen-Z về mục đích, chất lượng và tính mới mẻ.

Sự phát triển của thương mại điện tử

Mua sắm hàng hóa và dịch vụ trực tuyến không phải là điều mới do sự phát triển của Internet và điện thoại thông minh nhưng những làn sóng bùng phát của Covid-19 đã đẩy nhanh tốc độ các chủ doanh nghiệp mở cửa hàng thương mại điện tử và người tiêu dùng mua sắm trực tuyến. Trong thời điểm giãn cách, đơn hàng online tại các cửa hàng, siêu thị có lúc tăng từ 5-7 lần khi nhiều người hạn chế đến siêu thị. Số liệu của Bộ Công Thương ghi nhận có khoảng 53% dân số tham gia mua bán trực tuyến, đưa thị trường thương mại điện tử Việt Nam trong năm 2020 tăng trưởng 18%, đạt 11,8 tỷ USD. Người tiêu dùng mua sắm trực tuyến nhiều hơn dẫn đến khối lượng bao bì thương mại điện tử gia tăng. Khi Covid-19 tác động đến việc mua hàng, bao bì đóng gói sẽ đóng vai trò quan trọng hơn nữa. Bao bì thương mại điện tử vẫn phản ánh các nguyên tắc cơ bản giống như khi mua sắm trực tiếp và cho phép một sản phẩm đóng gói tham gia vào chuỗi phân phối dài hơn, phức tạp hơn của thế giới thương mại điện tử và đáp ứng kỳ vọng đang thay đổi của khách hàng và người tiêu dùng trong lĩnh vực này.

Một cuộc khảo sát gần đây của Vietnam Report cho thấy 51,96% người sẽ mua sắm trực tuyến thường xuyên như khi xảy ra đại dịch và 45,10% người cho rằng sẽ mua sắm trực tuyến ít hơn so với khi đại dịch bùng phát nhưng nhiều hơn so với trước khi có dịch. Thương mại điện tử vẫn tiếp tục phát triển mạnh sau đại dịch, nhiều định dạng đóng gói hiện tại sẽ phải được cập nhật hoặc thiết kế lại để tối ưu hóa cho thương mại điện tử và vận chuyển: các định dạng đóng gói trong tương lai sẽ cần để ngăn ngừa hư hỏng sản phẩm, hỗ trợ năng suất trong toàn bộ chuỗi cung ứng, giảm chi phí vận chuyển và cải thiện trải nghiệm của người tiêu dùng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp bao bì cần tiếp tục đổi mới trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất bao bì chuyên dụng dành cho thương mại điện tử.

Sự phát triển ứng dụng khoa học công nghệ trong ngành Bao bì

Sự phát triển của khoa học công nghệ đã mở ra cơ hội, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ trong ngành công nghiệp bao bì từ định hình thiết kế, chất liệu bao bì đến thay đổi trong sản xuất, vận hành và tự động hóa giao hàng. Đại dịch Covid-19 đã nhanh chóng biến đổi ngành công nghiệp bao bì theo nhiều cách, đặc biệt là bằng cách thúc đẩy nhu cầu áp dụng kỹ thuật số không chỉ để giảm thiểu rủi ro trong chuỗi cung ứng và sản xuất mà còn để cải thiện năng suất và hạ giá thành. Ngoài ra, khi chi phí giảm, ngày càng có nhiều sự quan tâm đến việc áp dụng các giải pháp thông minh và số hóa vào bao bì nhằm mục đích tương tác với người tiêu dùng, theo dõi và truy tìm nguồn gốc. Ngành công nghiệp bao bì cũng đang đối mặt với áp lực ngày càng tăng đối với việc số hóa trước sự tăng trưởng mạnh mẽ trong thương mại điện tử, đã tạo ra các yêu cầu mới về bao bì cần phải thông minh, tiện lợi hơn.

Theo đó, các doanh nghiệp bao bì sẽ tăng cường đầu tư vào thiết bị và công nghệ mới để nâng cao năng lực cũng như khả năng cạnh tranh, đáp ứng các quy định về môi trường, nhu cầu của khách hàng và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Động lực và tiềm năng tăng trưởng của ngành Bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo

Theo đánh giá của các chuyên gia và doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report, 6 biến số ảnh hưởng nhất đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp bao bì, bao gồm: (i) Sự thay đổi trong hành vi người tiêu dùng; (ii) Sự biến động của giá và nguồn nguyên liệu, phụ gia; (iii) Sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nội – ngoại; (iv) Các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết; (v) Khả năng hồi phục của nền kinh tế; (vi) Sự tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ và cải tiến quy trình sản xuất.

Hơn 80% chuyên gia và doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report đánh giá ngành bao bì sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng và có thể tăng trưởng hơn một chút so với năm 2021. Ngành bao bì trong thời gian tới được dự báo sẽ có nhiều động lực thúc đẩy khi mà Việt Nam và nhiều nước là thị trường xuất khẩu chính của doanh nghiệp bao bì cũng chuyển sang chiến lược sống chung với Covid, nền kinh tế có nhiều triển vọng phục hồi trong năm 2022, cùng với đó là nhiều người có việc làm và mua nhiều hàng hóa tiêu dùng hơn sẽ mở ra cơ hội tăng trưởng của ngành bao bì.

Công nghiệp/vận chuyển là ứng dụng đóng gói cuối cùng lớn nhất, chiếm 41,6% doanh số bán hàng thế giới vào năm 2020, tiếp theo là thực phẩm với 29,6% và đồ uống với 13,9%. Tại Việt Nam, thống kê sơ bộ cho thấy bao bì đóng gói thực phẩm chiếm 30%-50%; điện – điện tử chiếm 5%-10%; hóa dược phẩm từ 5%-10%. Sự phát triển của ngành hàng thực phẩm của Việt Nam là tác nhân thúc đẩy lĩnh vực Bao bì đóng gói luôn đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15% -20%/năm, riêng bao bì nhựa đã đạt mức tăng trưởng 25%/năm và chiếm tỷ trọng doanh thu cao nhất trong cơ cấu ngành nhựa (38% – 39%). Kết quả khảo sát Vietnam Report về nhu cầu với một số phân khúc sản phẩm theo ngành hàng cho thấy một xu hướng tiếp tục tăng trưởng trong năm 2022 cho thị trường xuất khẩu, ngành hàng thực phẩm – đồ uống, điện tử, dược phẩm, bao bì xi măng. Lĩnh vực dược phẩm được dự báo sẽ tăng doanh số bán hàng đóng gói với tốc độ nhanh nhất, tiếp theo là điện tử và thực phẩm đồ uống. Trong lĩnh vực công nghiệp, doanh số bán hàng container rời trung gian (IBC) được dự đoán sẽ tăng với tốc độ nhanh nhất, nhờ nhu cầu về thùng phuy nhựa và thép tăng do độ bền và khả năng tái sử dụng của chúng.

Hình 4: Đánh giá nhu cầu của một số phân khúc sản phẩm bao bì trong năm 2022 (Nguồn: Vietnam Report khảo sát chuyên gia và các doanh nghiệp bao bì, tháng 11/2021)

Các Hiệp định thương mại tự do EVFTA, CPTPP, RCEP được ký kết và đi vào hiệu lực sẽ tiếp tục mở ra cơ hội xuất khẩu cho các ngành hàng sử dụng nhiều bao bì như nông, lâm, thủy sản, công nghiệp chế biến v.v, cùng với nhu cầu về bao bì chất lượng cao trên thế giới rất lớn như giấy bao bì cao cấp (tráng phủ), điều đó mang lại cơ hội xuất khẩu lớn cho ngành bao bì của Việt Nam.

Dư địa tăng trưởng của ngành bao bì tại Việt Nam trong thời gian tới vẫn còn lớn từ việc nhiều doanh nghiệp bao bì đã nắm bắt cơ hội tăng trưởng bằng việc mở thêm nhà máy và nâng cao chất lượng sản phẩm. Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội Giấy, Bột giấy Việt Nam (VPPA) và Bao Bì Toàn Cầu, giai đoạn cuối năm 2020 đầu năm 2021 có 8 nhà máy sản xuất giấy bao bì công nghiệp đưa vào vận hành với tổng công suất thiết kế khoảng 1,4 triệu tấn/năm. Sự tăng đầu tư mở rộng sản xuất từ phía doanh nghiệp, sẽ không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, đặc biệt là trong thời kỳ phục hồi kinh tế sau đại dịch, mà còn phục vụ xuất khẩu, và bắt làn sóng khi chủ sở hữu nhiều thương hiệu cải tiến việc ra mắt sản phẩm của họ trong thời kỳ bình thường tiếp theo.

Trong trung và dài hạn: Tăng trưởng trong ngành bao bì hiện đang được thúc đẩy bởi hai xu hướng lớn: tăng dân số toàn cầu và tầng lớp trung lưu ngày càng mở rộng. So với con số 7,8 tỷ người hiện nay, dân số toàn cầu được dự đoán sẽ đạt 9,2 tỷ vào năm 2040. Trong khi đó, tầng lớp trung lưu toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng 66% từ 3 tỷ lên hơn 5 tỷ trong 10 năm tới, với những người sống lâu hơn, khỏe mạnh và chất lượng cuộc sống tốt hơn. Khi quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày một tăng.

Xét theo vật liệu đóng gói: Bao bì giấy và thùng carton được dự báo sẽ tăng doanh số bán, theo dự đoán của VPPA, trong 5-10 năm tới, nhu cầu tiêu dùng bao bì giấy dự báo tăng trưởng 14%-18%/năm. Điều này là do một số yếu tố, đầu tiên là (i) sự ưa chuộng ngày càng tăng đối với bao bì làm từ sợi phù hợp với các mục tiêu bền vững của chủ sở hữu thương hiệu, (ii) sự điều tiết của chính sách môi trường là tập trung vào việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn và (iii) sự gia tăng doanh số thương mại điện tử trong thời kỳ đại dịch. Trong giai đoạn 5 năm tới, đại dịch sẽ tiếp tục có ảnh hưởng và phân khúc vật liệu phát triển nhanh thứ hai sẽ là nhựa cứng và mềm. Mặc dù loại chất liệu này thường được coi là những loại bao bì kém bền vững nhất, nhưng cả hai đều sẽ được hưởng lợi từ việc đổi mới thiết kế và một loạt các công nghệ tái chế mới, cả cơ học và hóa học trong thời gian tới, tạo ra sự tiện lợi, hiệu quả, chi phí thấp khi người tiêu dùng chuyển sang mua nhiều hàng hóa đóng gói hơn.

Top 5 giải pháp của doanh nghiệp Bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo

Để đạt được thành công trong bối cảnh nền kinh tế biến động và nhiều xu hướng phát triển vượt bậc sẽ đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần có một tư duy đổi mới kết hợp với các lựa chọn chiến lược đúng đắn. Sự tiếp cận chủ động sẽ giúp các công ty đi đầu trong các diễn biến của thị trường, đồng thời tạo cơ hội trở thành đối tác quan trọng của khách hàng, các chủ thương hiệu.

Kết quả khảo sát của Vietnam Report đã chỉ ra top 5 giải pháp của doanh nghiệp bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo: (i) Tăng cường đầu tư công nghệ, số hóa các hoạt động vận hành của doanh nghiệp; (ii) Tăng cường các biện pháp quản trị rủi ro tài chính, chuỗi cung ứng; (iii) Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với chuyển đổi số; (iv) Mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing; (v) Thực hiện chiến lược phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Kết quả khảo sát cũng cho thấy sự thay đổi trong chiến lược hành động của doanh nghiệp bao bì, nếu như năm 2020 phương án Mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing là giải pháp được nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhất, thì năm nay Tăng cường số hóa các hoạt động vận hành là giải pháp được ưu tiên hàng đầu với gần 80% doanh nghiệp lựa chọn, gia tăng đáng kể so với kết quả khảo sát năm trước (năm 2020 là 57,14%). Ngành công nghiệp bao bì áp dụng chuyển đổi số còn hạn chế, có 20% doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report còn đang trong giai đoạn thiết kế chuyển đổi số. Với cách tiếp cận đúng đắn và trọng tâm thực hiện, các công ty bao bì sẽ có thể nâng cao hiệu quả về chi phí, tăng trưởng và năng suất do kỹ thuật số mang lại.

Đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến khó lường và tiếp tục gây ra những thách thức về gián đoạn chuỗi cung ứng. Để đối phó với thách thức này, các doanh nghiệp bao bì phải tìm kiếm các phương án dự phòng, tăng cường các biện pháp quản trị rủi ro về tài chính, liên tục cập nhật giá cả và xu hướng thị trường, xác định mức hàng tồn kho hợp lý, đa dạng nhà cung cấp nguyên vật liệu, chủ động hơn trong việc sản xuất nguyên liệu v.v.

Hình 5: Top 5 giải pháp của doanh nghiệp Bao bì trong thời kỳ bình thường tiếp theo (Nguồn: Vietnam Report khảo sát các doanh nghiệp bao bì, tháng 11/2021)

Việc chuyển đổi kỹ thuật số đã và sẽ tiếp tục ảnh hưởng rất nhiều đến công nghệ của ngành đóng gói, cùng với đó đầu tư vào con người cũng là một cách để nâng cao hiệu quả sản xuất bao bì. Kết quả khảo sát gần đây của Vietnam Report với các doanh nghiệp bao bì đã cho thấy một trong những khó khăn mà hầu hết doanh nghiệp gặp phải khi tiếp cận và ứng dụng chuyển đổi số trong thời gian qua đó là việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng và vận hành hoạt động chuyển đổi số. Theo đó, hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thích ứng với chuyển đổi là một trong 5 giải pháp quan trọng các doanh nghiệp bao bì trong khảo sát của Vietnam Report lựa chọn.

Trước chủ trương của Chính phủ giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường, tiết kiệm năng lượng, nhằm hướng tới phát triển bền vững và vai trò triển khai chiến lược phát triển bền vững trong nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp, có 40% doanh nghiệp bao bì trong khảo sát của Vietnam Report lựa chọn thực hiện chiến lược phát triển bền vững trong thời gian tới thông qua tăng sử dụng nguyên liệu có thể tái tạo và tái chế như thu gom bao bì giấy, xây dựng nhà máy tái chế; nâng cao công tác quản trị; liên kết hợp tác trong chuỗi cung ứng, giảm lượng khí thải cac bon v.v.

Đánh giá truyền thông

Kết quả phân tích Media coding của Vietnam Report chỉ ra những chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông với ngành Bao bì: Tài chính/Kết quả kinh doanh; Cổ phiếu; Chiến lược kinh doanh/M&A; Hình ảnh/PR/Scandal; Sản phẩm; Đầu tư. So với thời gian nghiên cứu của năm trước, hai chủ đề có sự gia tăng mạnh về lượng tin là Chiến lược kinh doanh/M&A và Đầu tư. Với sự hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã và đang phát triển nhanh chóng tại thị trường Việt Nam. Không nằm ngoài xu hướng đó cùng tiềm năng phát triển cao, ngành Bao bì cũng chứng tỏ sức hấp dẫn của mình khi thu hút được lượng lớn công ty/tập đoàn tham gia đầu tư, chuyển nhượng. Theo dữ liệu của FiinGroup, trong năm 2020 và 4 tháng đầu năm 2021, Việt Nam ghi nhận 56 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới trong ngành bao bì với tổng trị giá 516 triệu USD. Trong đó, phân khúc bao bì giấy, thùng carton và bao bì mềm là những phân khúc hấp dẫn nhiều nhà đầu tư nhất do nhu cầu của các loại bao bì này trong nước và tiềm năng xuất khẩu ngày càng lớn.

Hình 6: Top 10 chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông (Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding ngành Bao bì từ tháng 9/2020 đến tháng 10/2021)

Xét về tỷ lệ tin tích cực – tiêu cực theo chủ đề: Nhóm chủ đề về Hình ảnh/PR, Tài chính/Kết quả kinh doanh, Vị thế thị trường có nhiều tin tích cực nhất. Những hoạt động ủng hộ quỹ vắc xin, quỹ vì người nghèo, tặng giường carton cho các khu cách ly hay thực hiện thu gom nguyên liệu bảo vệ môi trường trong thời gian qua đã xây dựng những hình ảnh tốt đẹp trong mắt công chúng, nhà đầu tư và xã hội. Tỷ lệ tin tiêu cực cao thuộc về các nhóm Đầu tư, Cổ phiếu với những thông tin về hiệu quả đầu tư thấp ở một số doanh nghiệp.

    >>> Suzano tăng giá bột BEK tại châu Á

Theo Vietnamnet

Làng nghề tái chế với chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất: Thực thi chính sách EPR là xu hướng tất yếu

PV: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đưa ra nguyên tắc cơ bản của cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Hiện nay Bộ TN&MT cũng đang xây dựng khung pháp lý cụ thể để hướng dẫn thực thi. Xin ông cho biết những lợi ích mà EPR đem lại?

Ông Hoàng Đức Vượng:

Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu là công cụ mang tính đột phá của Chính phủ trong việc bảo vệ môi trường, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn. Việc thực thi chính sách này là thách thức lớn đối với các nhà quản lý và doanh nghiệp nhưng nó là xu hướng tất yếu với một số lợi ích cơ bản như: Thúc đẩy hệ thống thu gom, tái chế cả những loại bao bì và sản phẩm ít giá trị, khó tái chế đang gây ô nhiễm môi trường và làm quá tải các bãi rác như hiện nay. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp nỗ lực thiết kế sản phẩm và bao bì sinh thái có khả năng thu gom, tái chế cao hơn, từ đó giảm chi phí và gánh nặng cho nhà tái chế.

Ngoài ra, chính sách này có khả năng hỗ trợ ngành tái chế chuyển đổi hệ thống tái chế giản đơn, chất lượng thấp sang hệ thống chất lượng cao, tiên tiến, hiện đại; tạo ra sản lượng tái chế lớn, chất lượng cao làm tăng thêm nhu cầu, tạo ra thị trường cho sản phẩm tái chế; hạn chế rủi ro tài chính cho các nhà tái chế do việc tái chế thiếu an toàn, khả thi về mặt kinh tế, kinh phí hỗ trợ từ EPR sẽ giải quyết vấn đề này.

PV: Theo ông, kinh tế tuần hoàn nói chung, chính sách EPR nói riêng sẽ ảnh hưởng gì đối với những làng nghề tái chế nói riêng và ngành tái chế nói chung?

Ông Hoàng Đức Vượng:

Chính sách EPR quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đối với 6 nhóm ngành hàng bao gồm: bao bì, pin – ắc quy, dầu nhờn, săm lốp, thiết bị điện tử, ô tô – xe máy. Hầu hết các mặt hàng này sau khi thải bỏ đang được tái chế tại các làng nghề. Nhiều năm qua, chúng ta chưa có sự nhìn nhận, hướng dẫn và đầu tư đúng mức, vì vậy, nhiều làng nghề phát sinh ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là gây nguy hại đối với chính những người lao động trong làng nghề đó.

Thực hiện chính sách mới, bắt buộc các doanh nghiệp phải thu gom, tái chế hoặc thuê doanh nghiệp thu gom, tái chế các loại bao bì và sản phẩm. Đây chính là động lực thúc đẩy làng nghề hình thành các doanh nghiệp tái chế đảm bảo môi trường, tạo ra thị trường thu gom phế liệu triệt để hơn, số lượng lớn hơn, đồng nghĩa với việc tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập.

Khi các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, chính họ sẽ phải bắt tay với hệ thống thu gom phế liệu, tái chế, đồng nghĩa với việc hệ thống này được quan tâm, đặt vào vị trí cao hơn trong nền kinh tế.

Cá nhân tôi cho rằng, khi thực thi chính sách, mỗi làng nghề tái chế sẽ dịch chuyển thành 2 xu hướng, một số hộ tái chế lớn sẽ kết hợp để thành lập doanh nghiệp tái chế và di chuyển vào các khu công nghiệp, thực hiện tái chế đảm bảo về môi trường để được nhận kinh phí hỗ trợ, phần còn lại sẽ làm công việc thu gom, phân loại để cung cấp cho doanh nghiệp tái chế. Như vậy, việc tái chế tại các làng nghề sẽ giảm mạnh, bài toán ô nhiễm tại các làng nghề sẽ được giải.

lang-nghe-tai-che-voi-chinh-sach-trach-nhiem-mo-rong-cua-nha-san-xuat-thuc-thi-chinh-sach-epr-la-xu-huong-tat-yeu
Tái chế rác thải điện tử.

PV: Vậy, chúng ta cần làm gì để không xảy ra xung đột về mặt lợi ích giữa nhóm tái chế chính thức và làng nghề tái chế thưa ông?

Ông Hoàng Đức Vượng:

Như tôi đã nói trên, việc thực thi chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất không tạo ra xung đột về lợi ích giữa các doanh nghiệp tái chế và các làng nghề tái chế.

Chính sách này tạo ra dòng tiền, tăng thêm kinh phí cho thu gom tái chế lớn hơn trước đây làm cho thị trường thu gom tái chế mạnh hơn, những cá nhân, tổ chức hoạt động trong thị trường đó đều được hưởng lợi. Các doanh nghiệp tái chế được hỗ trợ kinh phí từ chính sách sẽ cạnh tranh để thu gom, tái chế với sản lượng lớn hơn, giá cao hơn, tăng thêm thu nhập cho hệ thống thu gom phi chính thức. Trong khi đó, các hộ gia đình tái chế có cơ hội để chuyển đổi từ tái chế giản đơn, gây ô nhiễm thành các doanh nghiệp tái chế tiên tiến, bảo vệ môi trường.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Luật Bảo vệ môi trường 2020 có những điều chỉnh căn bản về chính sách EPR và được quy định trong Điều 54 và Điều 55. Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các Bộ, ngành liên quan sẽ quyết định tỷ lệ tái chế bắt buộc và quy cách tái chế bắt buộc cho các ngành hàng. Hiện tại, Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang thực hiện soạn thảo hướng dẫn chi tiết việc thực thi EPR theo quy định mới. Tổ công tác EPR ở Việt Nam đã được thành lập để thúc đẩy đối thoại đa bên trong xây dựng chính sách và thực thi EPR tại Việt Nam.

    >>> Pháp ban hành lệnh cấm sử dụng bao bì nhựa cho trái cây và rau quả

Theo Báo Tài nguyên Môi trường

Suzano tăng giá bột BEK tại châu Á

Đây là lần tăng giá thứ ba được công ty đưa ra trong thời gian gần đây, tháng 12/2021 công ty đã thực hiện tăng giá 20 USD/tấn  và đầu tháng 01/2022 tăng giá 30 USD/tấn.

Các nhà nghiên cứu thị trường cho biết, do ảnh hưởng của dịch covid-19, biến động và nhu cầu của thị trường đã hỗ trợ cho việc Công ty Suzano tiếp tục thực hiện việc tăng giá thêm ở châu Á. Trong khi đó, tồn kho bột giấy gỗ cứng ở Trung Quốc thấp, tỷ lệ hoạt động của các nhà sản xuất giấy địa phương tốt hơn, nhưng khó khăn về chi phí logistics và chi phí vận tải vẫn đang ảnh hưởng rất lớn đến việc giao hàng./.

Theo Fastmarkets RISI