Chính phủ đề xuất sửa 3 luật thuế quan trọng

Có thể tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia

Dự kiến chiều nay (15/4), Ủy ban Thường vụ Quốc hội bắt đầu Phiên họp thứ 32, với nội dung đầu tiên được đặt lên bàn nghị sự là dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh năm 2024.

Tại tờ trình về nội dung này, Chính phủ đề nghị bổ sung vào chương trình của Kỳ họp thứ tám (tháng 10/2024) 7 dự án luật, trong đó có 2 dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Việc sửa đổi cả hai dự án luật đều nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, khơi thông, phát huy nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Với Dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), mục tiêu còn có chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí có hại cho sức khỏe và môi trường. Theo đó, Chính phủ đề nghị xây dựng luật với 7 nhóm chính sách, hoàn thiện các quy định về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế, căn cứ tính thuế, giá tính thuế, thuế suất, hoàn thuế và quy định về điều khoản thi hành.

Phối hợp thẩm tra đề nghị bổ sung Dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đánh giá, các nội dung được đề xuất sửa đổi, bổ sung qua tổng kết, đánh giá đều có vướng mắc, bất cập.

Liên quan đến các chính sách cụ thể, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cho rằng, bên cạnh “nước giải khát theo tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml”, có thể rà soát, bổ sung hàng hóa, dịch vụ vào đối tượng chịu thuế để đảm bảo tính bao quát.

Với chính sách hoàn thiện quy định về thuế suất, Chính phủ đề xuất quy định phương pháp tính thuế hỗn hợp (thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối) đối với mặt hàng thuốc lá. Đối với thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm từ cây thuốc lá, Chính phủ đề nghị bổ sung quy định thuế tuyệt đối. Tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt (thuế tỷ lệ phần trăm) đối với rượu, bia theo lộ trình cũng là đề xuất ở lần sửa đổi này.

Những đề xuất trên, theo Thường trực Ủy ban Tài chính –  Ngân sách của Quốc hội, sẽ tăng tính hiệu quả của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, góp phần định hướng tiêu dùng và phù hợp với xu hướng cải cách thuế của các nước. Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cũng cơ bản nhất trí với định hướng ưu đãi thuế suất đối với xe chạy bằng khí thiên nhiên (dự kiến áp dụng mức thuế suất bằng 70% xe ô tô chạy bằng xăng, dầu cùng loại).

Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) được đề nghị xây dựng với 7 nhóm chính sách liên quan đến người nộp thuế và chịu thuế, các khoản thu nhập được miễn thuế. Lần sửa đổi này cũng sẽ điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số nhóm đối tượng cho phù hợp với các yêu cầu và bối cảnh mới. Bên cạnh đó là hoàn thiện các quy định về ưu đãi thuế, áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu…

Tán thành bổ sung dự án luật này, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cơ bản nhất trí với một số chính sách cụ thể, như bổ sung quy định để áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (dự kiến mức thuế suất tương ứng 17% và 15%).

Lần này, Chính phủ cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về xác định thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh nghiệp có hoạt động sản xuất – kinh doanh (đang được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp) bị lỗ thì được bù trừ với lãi từ chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư.

Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cho rằng, cần lý giải rõ hơn về mục tiêu chính sách này, làm rõ về các đối tượng được thụ hưởng và lượng hóa tác động giảm thu đối với ngân sách nhà nước.

Liên quan đến chính sách về người nộp thuế và thu nhập chịu thuế, Chính phủ đề xuất mở rộng khái niệm cơ sở thường trú để bổ sung vào đối tượng nộp thuế các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp hàng hóa dịch vụ vào Việt Nam theo các hình thức thương mại điện tử, có thu nhập tại Việt Nam, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh.

Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cho rằng, quy định này chưa giải quyết được một cách triệt để vấn đề thu thuế với các nhà cung cấp nước ngoài qua nền tảng thương mại điện tử hiện nay. Bởi các nhà cung cấp nước ngoài chủ yếu đều là đối tượng cư trú tại các nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt  Nam, nên sẽ được miễn khoản thuế thu nhập doanh nghiệp này theo Hiệp định.

Thuế giá trị gia tăng phải giải quyết được các bài toán đặt ra từ thực tiễn

Sớm hơn một kỳ, Dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ bảy vào tháng 5 tới.

Theo dự thảo mới được Viện Nghiên cứu lập pháp (thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội) lấy ý kiến chuyên gia, Chính phủ dự kiến sửa đổi, bổ sung các nội dung quy định tại 10 điều của Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành, gồm: người nộp thuế; đối tượng không chịu thuế; giá tính thuế; thuế suất; phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào; các trường hợp hoàn thuế; hiệu lực thi hành; tổ chức thực hiện.

Đáng chú ý, Dự thảo đã bỏ 7 hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng gồm: phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; lưu ký chứng khoán; dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và Internet phổ cập theo chương trình của Chính phủ; dịch vụ duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng.

Một số chuyên gia cho rằng, cần bổ sung việc vận chuyển hành khách công cộng bằng tàu hỏa thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, quy định theo hướng hàng hóa, dịch vụ dùng để tặng, cho, biếu với mục đích từ thiện thì giá tính thuế được xác định bằng 0.

Về thuế suất, theo hồ sơ được công bố trên Cổng thông tin điện tử Quốc hội, Dự thảo bổ sung quy định cụ thể 3 nhóm hàng hóa không được áp dụng thuế suất 0% để luật hóa các quy định đang thực hiện ổn định tại các văn bản dưới luật, gồm thuốc lá, rượu, bia nhập khẩu sau đó xuất khẩu; xăng, dầu mua tại nội địa bán cho xe ô tô của cơ sở kinh doanh trong khu phi thuế quan, xe ô tô bán cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan; hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho cá nhân không đăng ký kinh doanh trong khu phi thuế quan.

Dự thảo cũng bổ sung quy định không được áp dụng thuế suất 0% đối với sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên các nền tảng số theo quy định của Chính phủ để đảm bảo tính linh hoạt cho việc xác định sản phẩm, dịch vụ này được tiêu dùng tại Việt Nam hay ở nước ngoài tại thời điểm cung cấp.

Theo cơ quan trình, việc xác định địa điểm tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên các nền tảng số là rất phức tạp, hiện nay đều chỉ căn cứ theo kê khai của người nộp thuế.

Về hoàn thuế, cũng có nhiều điểm mới đáng chú ý, trong đó có quy định rõ dự án đầu tư được hoàn thuế giá trị gia tăng là “dự án đầu tư (dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng) theo quy định của pháp luật đầu tư (bao gồm cả dự án đầu tư được chia thành nhiều giai đoạn đầu tư hoặc nhiều hạng mục đầu tư, trừ trường hợp dự án đầu tư không hình thành tài sản cố định) đang trong giai đoạn đầu tư”.

Tại phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 4/2024, Chính phủ đã cho ý kiến về Dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý yêu cầu sửa đổi luật cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, bám sát thực tiễn, giải quyết được các bài toán đặt ra từ thực tiễn. Công cụ thuế cần bảo vệ sản xuất trong nước, khuyến khích các lĩnh vực ưu tiên, nhưng hợp tình, hợp lý, phù hợp tình hình, linh hoạt; tính toán hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người dân; đẩy mạnh chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, thất thoát, buôn lậu.

Đề nghị điều chỉnh 7 dự án luật của chương trình năm 2024

Chính phủ đề nghị lùi Dự án Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật tại Kỳ họp thứ bảy của Quốc hội sang Kỳ họp thứ tám.

Tại Kỳ họp thứ tám, bên cạnh thông qua Dự án Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho ý kiến và thông qua Luật Điện lực (sửa đổi) theo quy trình 1 kỳ họp; cho ý kiến Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Công nghiệp công nghệ số.

Nguồn: Báo đầu tư

Thêm cơ hội phát triển hợp tác đầu tư, thương mại Việt – Trung

Nâng tầm kết nối chiến lược, tạo động lực tăng trưởng mới cho hợp tác hai nước, trọng tâm là thúc đẩy hợp tác thương mại, mở rộng nhập khẩu hàng hóa, nhất là nông sản của Việt Nam, đẩy mạnh kết nối giữa Việt Nam với những chiến lược phát triển lớn của Trung Quốc, kết nối đường sắt, đường bộ cao tốc, đường biển, đường không, thúc đẩy hợp tác tài chính, tiền tệ, chuyển đổi số… Đó là những nội dung được Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại cuộc hội kiến giữa hai nhà lãnh đạo đầu tuần này, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.

Thời gian qua, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng đi vào chiều sâu, thực chất và trở thành điểm sáng trong quan hệ hai nước. Kể từ khi thực hiện cam kết trong Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc đến nay, Trung Quốc đã giảm thuế cho hơn 8.000 mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường rộng lớn.

Số liệu của hải quan Việt Nam cho thấy, năm 2023, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Trung Quốc đạt gần 172 tỷ USD; còn theo số liệu của hải quan Trung Quốc là 229,8 tỷ USD. Riêng 2 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu song phương đạt 27,3 tỷ USD, tăng 28%; trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 8 tỷ USD, tăng 7,6%; nhập khẩu từ Trung Quốc 19,3 tỷ USD, tăng 38,8%.

Về đầu tư, năm 2023, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam 4,47 tỷ USD, tăng 77,5%, đứng thứ 4 trong các quốc gia và vùng lãnh thổ, song dẫn đầu về số dự án mới, chiếm 22,17%. Trong quý I/2024, Trung Quốc dẫn đầu về số dự án có vốn đầu tư nước ngoài mới vào Việt Nam, chiếm 27,8%.

Tại cuộc làm việc với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cuối tháng 3/2024, Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc cho biết, một số ngành sản xuất, thậm chí chuỗi sản xuất của Trung Quốc đã chuyển sang Việt Nam như dệt may, đồ gia dụng, đồ gỗ… Đầu tư của Trung Quốc sang Việt Nam tăng nhanh chóng, nhất là điện tử…

Theo Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba, lãnh đạo nhiều công ty năng lượng và sản xuất điện lớn của Trung Quốc đã sang Việt Nam khảo sát thị trường. Việc đẩy nhanh chuyển đổi và nâng cấp năng lượng có ý nghĩa rất lớn với sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.

“Các doanh nghiệp Trung Quốc có thể hỗ trợ mạnh mẽ cho Việt Nam trong các lĩnh vực tư vấn chính sách, dịch vụ kỹ thuật chuyển đổi năng lượng và phát triển điện năng, cũng như việc phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời, lưu trữ năng lượng, năng lượng hydro và các nguồn năng lượng mới khác”, Đại sứ Hùng Ba cho hay.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, Việt Nam khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng hợp tác đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh, như đổi mới sáng tạo, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh, điện tử, công nghiệp phụ trợ… “Bộ Kế hoạch và Đầu tư cam kết đồng hành, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Trung Quốc triển khai đầu tư các dự án thành công, hiệu quả, đôi bên cùng có lợi tại Việt Nam”, ông Dũng nói.

Theo các chuyên gia, Việt Nam là cửa ngõ kết nối Trung Quốc với các nước ASEAN theo cả hai hướng đường bộ và đường biển, có lợi thế cạnh tranh nổi bật, hội tụ các điều kiện trở thành điểm đến đầy lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút nguồn FDI thế hệ mới, là điểm đến tiềm năng trong quá trình dịch chuyển và tái cấu trúc chuỗi cung ứng và mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Do vậy, chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ từ ngày 7 đến 12/4 được kỳ vọng sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa, tạo động lực và xung lực mạnh mẽ cho sự phát triển quan hệ song phương.

Nguồn: Báo đầu tư

“Năm 2024 là thời điểm các doanh nghiệp có thể cân nhắc đến việc đầu tư dài hạn”

Năm 2023, cộng đồng DN phải đối mặt với không ít khó khăn. Các DN ngành giấy nói chung và Công ty TNHH Giấy Đồng Tiến nói riêng đã vượt qua như thế nào, thưa ông?

Những khó khăn, thách thức mà các DN gặp phải không chỉ riêng trong năm 2023 mà thực sự đã bắt đầu từ giữa năm 2022. Trong khoảng thời gian dịch bệnh Covid-19 bùng phát mạnh từ đầu năm 2020 đến giữa năm 2022, nền kinh tế Việt Nam và thế giới vẫn phát triển khá tốt, đặc biệt là với ngành giấy.

Ông Hoàng Trung Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Giấy Đồng Tiến

Thời điểm các DN ngành giấy thực sự khó khăn là từ tháng 5/2022 cho đến nay, khi Trung Quốc thực hiện phong tỏa nghiêm ngặt toàn quốc để phòng chống đại dịch Covid-19 khiến hoạt động giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc gần như bị đóng băng. Bên cạnh đó cuộc chiến Nga – Ukraine rồi tiếp theo là Israel – Hamas khiến lạm phát tăng cao, nhu cầu tiêu dùng xuống thấp, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang hai thị trường chính là Mỹ và châu Âu sụt giảm mạnh, trong đó có những ngành hàng sử dụng bao bì rất nhiều như: Đồ gỗ, vật liệu xây dựng, may mặc, giày dép, hàng điện tử, thủy hải sản,… Đồng thời, giấy Việt Nam xuất sang Trung Quốc cũng giảm cả về giá cả lẫn sản lượng khiến các nhà máy giấy chạy không đủ công suất, giá giấy thành phẩm phải giảm tối đa để có đơn hàng, trong khi giá nguyên liệu và năng lượng lại tăng đã đẩy các DN ngành giấy Việt Nam gần như không còn lợi nhuận, thậm chí một số DN thua lỗ phải tạm dừng hoạt động.

Trong bối cảnh chung như vậy, Đồng Tiến cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực. Cụ thể là so với năm 2022, năm 2023 sản lượng của Đồng Tiến vẫn tăng, nhưng doanh thu lại giảm do giá bán sản phẩm giảm tới gần 30%. Dù vậy, tôi cho rằng năm 2023 vẫn là năm khá thành công của Đồng Tiến bởi Công ty đã duy trì được hoạt động thường xuyên, tạo được việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.

Việc các DN duy trì được hoạt động trong lúc khó khăn thì cũng sẽ có cơ hội để bứt tốc khi thuận lợi, thưa ông?

Tôi hoàn toàn đồng ý. Các DN một khi đã đứng vững trong những thời khắc khó khăn thì hoàn toàn có thể tin tưởng vào tương lai tốt đẹp hơn, trước mắt là có cơ hội phát triển tốt hơn trong năm 2024.

Công ty Đồng Tiến, với những giá trị và năng lực cốt lõi, có đội ngũ gắn kết được hình thành, phát triển trong gần 30 năm qua và đang là đối tác chiến lược với Tetra Pak Việt Nam và Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam (PRO Việt Nam), tự hào là DN tiên phong và sẽ tiếp tục đóng vai trò tích cực trong hoạt động thu gom, tái chế vỏ hộp đồ uống giấy. Có thể nói, đây vừa là vai trò nhưng cũng là cơ hội phát triển của Đồng Tiến trong chuỗi kinh tế tuần hoàn, trong việc thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất theo quy định của Luật bảo vệ môi trường, có hiệu lực từ ngày 01/01/2024.

Được biết, thời gian qua ông đã dành nhiều tâm huyết cho Hiệp hội Giấy và Bột Giấy Việt Nam và đang tích cực góp phần để tái cơ cấu ngành giấy, ông nhận định như thế nào về những thách thức của ngành?

Đại hội toàn thể Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA) được tổ chức vào tháng 03/2023 vừa qua đã xác định 4 thách thức lớn đối với ngành giấy Việt Nam hiện nay. Bản thân tôi với vai trò Chủ tịch Hiệp hội cùng với các ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội đang rất nỗ lực để giải quyết các thách thức đó.

Thách thức đầu tiên, đó là sự bất cân đối trong đầu tư sản xuất. Như chúng ta biết, giấy bao bì thông thường chiếm khoảng 45 – 50% nhu cầu, còn lại là các loại giấy khác như giấy in, giấy viết, giấy vệ sinh, giấy báo,… Song ở Việt Nam hiện nay, đầu tư tập trung chủ yếu vào giấy bao bì (chiếm tới hơn 85% tổng năng lực sản xuất). Trong khi, hầu hết những loại giấy chất lượng cao và có giá trị cao thì Việt Nam chưa sản xuất được. Do đó, Hiệp hội đang kêu gọi các DN quan tâm đầu tư vào sản xuất các loại giấy này cũng như khuyến cáo cần hạn chế đầu tư vào sản xuất giấy bao bì.

Thách thức thứ hai là sự thiếu hụt và mất cân đối về nguồn nguyên liệu chính cho phát triển bền vững của ngành giấy, cụ thể là bột giấy và giấy thu hồi. Việt Nam đang là cường quốc xuất khẩu dăm gỗ (nguyên liệu thô để sản xuất bột giấy) với lượng xuất khẩu hàng năm lên tới 17 đến 18 triệu tấn nhưng lại đang phải nhập khẩu khoảng 400 ngàn tấn bột giấy và hàng triệu tấn giấy thu hồi (Recover paper) làm nguyên liệu sản xuất mỗi năm. Theo số liệu thống kê, năm 2023 Việt Nam nhập khẩu khoảng 2,8 triệu tấn và dự kiến từ năm 2025 sẽ phải nhập khẩu khoảng 5 đến 7 triệu tấn giấy thu hồi hàng năm làm nguyên liệu sản xuất giấy, trong khi nguồn xuất khẩu chính là từ châu Âu và Bắc Mỹ ngày càng hạn chế và có nguy cơ bị kiểm soát bởi các tập đoàn, công ty giấy lớn. Thêm vào đó, giấy thu hồi lại đang bị các cơ quan quản lý xem là “phế liệu” với nhiều hạn chế và các quy định kiểm soát phức tạp trong nhập khẩu. Hiệp hội đang kiến nghị Nhà nước cần xem giấy thu hồi là hàng hóa thông thường được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất như nhiều nước khác đã làm và có chính sách khuyến khích, ưu đãi về thuế đối với các hoạt động thu gom, tái chế giấy; đồng thời kêu gọi và khuyến khích các DN quan tâm đầu tư vào sản xuất bột giấy với thiết bị, công nghệ tiên tiến.

Thách thức tiếp theo là vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và công nghiệp phụ trợ cho ngành giấy. Việt Nam hiện vẫn rất thiếu các chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp có kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất giấy và bột giấy, đặc biệt là trong nghiên cứu, sản xuất các loại giấy chất lượng cao. Công nghiệp phụ trợ chưa theo kịp nhu cầu tăng trưởng nhanh của ngành giấy trong thời gian qua cũng là một hạn chế không nhỏ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của ngành.

Thách thức cuối cùng, đó là: Thực trạng hiện nay, ngành giấy đang bị coi là ngành công nghiệp có nguy cơ ô nhiễm cao, các địa phương nghe đến đầu tư sản xuất giấy và đặc biệt là bột giấy thì đều rất e dè, không khuyến khích và không có các chính sách hỗ trợ đầu tư cả về đất đai lẫn tài chính. Trong khi về bản chất, ngành giấy là ngành kinh tế xanh, phù hợp tự nhiên với kinh tế tuần hoàn do nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất bột giấy có thể tái tạo (dăm gỗ được sản xuất từ rừng trồng) và nếu xét góc độ phát thải khí nhà kính thì ngành giấy là ngành cân bằng tốt nhất bởi sự hấp thu khí nhà kính của rừng trồng nguyên liệu, năng lượng cho sản xuất chủ yếu từ nguồn nhiên liệu Biomas, tỷ lệ thu gom tái chế cao, sản phẩm giấy dễ phân hủy trong môi trường tự nhiên và với công nghệ xử lý hiện nay, nước thải từ quá trình sản xuất hoàn toàn đáp ứng tốt tiêu chuẩn xả thải. Chính vì thế, toàn thế giới đang khuyến khích sử dụng sản phẩm giấy thay thế hoàn toàn cho các sản phẩm nhựa dùng một lần.

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội, trong 10 năm qua tiêu dùng giấy tăng trung bình hơn 6%/năm, sản xuất tăng trung bình hơn 10%/năm và xu hướng tăng này vẫn tiếp tục ổn định trong 10 năm tới. Nếu giải quyết được các thách thức trên, chắc chắn ngành giấy Việt Nam sẽ phát triển nhanh, bền vững, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà.


Ông Hoàng Trung Sơn được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam nhiệm kỳ VII (2023 – 2028)

Ngành giấy Việt Nam nói chung đã có những bước phát triển rất tốt, nhưng nhiều ý kiến cho rằng “miếng bánh lớn” vẫn đang nằm trong tay các DN FDI?

Ở Việt Nam hiện có khoảng 500 DN sản xuất giấy nhưng chỉ có khoảng 20 DN có quy mô lớn. Trong đó, chỉ với 6 DN FDI đã chiếm sản lượng hơn một nửa năng lực sản xuất của toàn ngành. Toàn bộ các DN FDI được đầu tư dây chuyền sản xuất với thiết bị, công nghệ hiện đại, hệ thống quản trị tiên tiến và còn có thêm nhiều lợi thế vượt trội so với các DN Việt Nam. Tôi nghĩ rằng, muốn DN Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách với các DN FDI thì ngoài sự nỗ lực tự thân của các DN Việt Nam, rất cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phù hợp từ các cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam cũng đang có những thay đổi trong các hoạt động cũng như sinh hoạt của Hiệp hội như tổ chức cơ cấu lại bộ máy nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường trao đổi thông tin, giao lưu, hợp tác, gắn kết giữa các DN với nhau và với các DN FDI. Vừa qua, Hiệp hội đã tổ chức họp Ban Chấp hành mở rộng ở phía Nam có mời đại diện các DN FDI tham dự và kết quả đạt được trên cả mong đợi, các DN FDI rất nhiệt tình tham gia đóng góp ý kiến xây dựng và sẵn sàng hợp tác, hỗ trợ cùng với các DN Việt Nam. Nhờ đó, thông qua hiệp hội, các DN Việt Nam và các DN FDI có cơ hội kết nối, hợp tác, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giúp nhau cùng phát triển.

Qua thực tế cạnh tranh trên thị trường, chúng tôi nhận thấy rằng, các DN Việt Nam muốn tồn tại, phát triển thì phải quyết tâm đầu tư và quản trị doanh nghiệp như các DN FDI. Nghĩa là cũng phải đầu tư bài bản, chuyên nghiệp, xây dựng hệ thống quản trị và nhân lực tốt, thích nghi trong điều kiện mới. Nếu không thể đi một mình thì có thể cùng đi với các DN lớn bằng cách tham gia vào chuỗi cung ứng để cùng “win – win” chứ không phải cạnh tranh theo hướng triệt tiêu lẫn nhau.


Ông Hoàng Trung Sơn tại Đại hội Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam năm 2023

Ông có nhận định gì thêm và kỳ vọng gì trong năm 2024 này?

Tôi có niềm tin năm 2024 kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt hơn năm 2023. Dù các xung đột địa chính trị như cuộc chiến Nga – Ukraine, xung đột Israel – Hamas sẽ không sớm kết thúc, thậm chí có nguy cơ lan rộng, nhưng kinh tế thế giới cũng đang dần vượt qua giai đoạn khủng hoảng và thích nghi với tình hình mới, lạm phát đang có xu hướng giảm, kinh tế Mỹ và châu Âu (những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam) sớm hồi phục, phát triển giúp cho nhu cầu tiêu dùng tăng. Khi đó, các ngành truyền thống của nước ta như: Đồ gỗ, vật liệu xây dựng, may mặc, da giày, linh kiện điện tử, thủy hải sản,… sẽ có nhiều cơ hội hồi phục, phát triển trở lại, cùng với thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam tăng cao. Do đó, theo cá nhân tôi, đây cũng là thời điểm các DN nếu có điều kiện có thể cân nhắc đến việc đầu tư dài hạn.

Trân trọng cảm ơn ông!

Một số cột mốc quan trọng trong hành trình 30 năm phát triển của Đồng Tiến
1994: Thành lập bởi một nhóm kỹ sư chuyên ngành giấy (Đại học Bách khoa Hà Nội) có nhiệt huyết, yêu nghề và nhiều hoài bão với người dẫn đầu là ông Hoàng Trung Sơn, nay là Tổng Giám đốc Công ty.
2004: Xây dựng thêm nhà máy tái chế giấy mới tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương với dây chuyền máy móc thiết bị nhập khẩu.
2007: Tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền sản xuất thứ 2 tại nhà máy Bình Dương.
2011: Hợp tác với Công ty Tetra Pak Việt Nam, thành viên của Tập đoàn Tetra Pak – DN chuyên sản xuất bao bì giấy đựng đồ uống lớn nhất thế giới, đầu tư dây chuyền tái chế vỏ hộp sữa giấy đồng bộ đầu tiên, trở thành DN
tiên phong trong lĩnh vực thu gom, tái chế bao bì giấy đựng đồ uống tại Việt Nam.
2012: Tiếp tục lắp thêm dây chuyền sản xuất thứ 3 mua từ Hàn Quốc với hệ thống xử lý bột giấy tái chế đồng bộ, tự động hoàn toàn của hãng Andritz (Áo).
2017: Mua lại một nhà máy sản xuất giấy bao bì tại Long An, với sản lượng giai đoạn 1 là 20.000 tấn/năm.
2021: Mua bán sáp nhập (M&A) Công ty TNHH Giấy Vĩnh Cơ, chuyên sản xuất giấy Tissue tại Bình Dương. Qua đó, Đồng Tiến đã chính thức tham gia vào lĩnh vực sản xuất – kinh doanh giấy tiêu dùng.
Hiện Công ty đang tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm với tầm nhìn tiếp tục tiên phong trong lĩnh vực tái chế giấy đặc chủng và mục tiêu đến năm 2026 đạt tổng sản lượng 180.000 tấn/năm.

 

Trọng Trinh (Vietnam Business Forum) vccinews

Bản Tin VPPA tháng 03/2024

Trong bản tin số 03 – tháng 03/2024 bao gồm:

1. Giá xuất – nhập khẩu bột giấy và giấy

2. Tình hình sản xuất – kinh doanh ngành giấy trong nước

3. Tin tức đầu tư- kinh tế 

ANDRITZ khởi động dây chuyền sản xuất giấy tissue thứ hai tại Giấy Xương Giang, Việt Nam

West Fraser và Mercer tuyên bố giải thể liên doanh Giấy và Bột giấy Cariboo

SteamDry: Giải pháp sấy khô bền vững tiên phong cho ngành giấy

>>>XEM BẢN TIN THÁNG 03-2024

Người tiên phong tái chế giấy

Thoạt nhìn, mái lợp nhà để xe của Công ty Giấy Đồng Tiến bên bờ sông Thị Tính ở huyện Bến Cát, Bình Dương cũng giống như những mái tôn khác, sáng trắng và lượn sóng. Thế nhưng, khi nhìn kỹ, ngoài độ dày có vẻ nhỉnh hơn, trên nền sáng đa sắc màu của những tấm lợp lấp lánh những mảnh trắng li ti. Gọi chúng là mái nhôm – nhựa sẽ đúng hơn, vì chúng được ép từ những lớp nhôm và nhựa được tách ra từ những vỏ hộp giấy đựng đồ uống.

“Mái nhà để xe đó là những tấm lợp đầu tiên được Đồng Tiến sản xuất”, ông Hoàng Trung Sơn, Tổng Giám đốc Công ty Giấy Đồng Tiến, đồng thời là Chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA), giới thiệu về sản phẩm có tên “Tấm lợp sinh thái” được sản xuất từ nhôm – nhựa thu hồi của mẻ vỏ hộp giấy đựng đồ uống được tái chế đầu tiên 13 năm về trước. Bắt nguồn từ cuộc gặp cách đây 15 năm với đại diện của Tetra Pak, vị CEO của công ty chuyên tái chế giấy công nghiệp vừa tròn 30 năm tuổi (thành lập năm 1994) đã đưa Đồng Tiến đến với công việc tái chế vỏ hộp giấy đựng đồ uống.

Tái chế vỏ hộp giấy đựng đồ uống đã trở nên phổ biến tại Việt Nam, nhất là sau khi quy định về Trách nhiệm nhà sản xuất mở rộng (EPR) được thông qua từ năm 2021 và chính thức có hiệu lực từ tháng 1/2024 với ngành thức uống. Thế nhưng, tại thời điểm năm 2011, Đồng Tiến là đơn vị tiên phong và duy nhất tham gia lĩnh vực tái chế giấy khó nhằn này

So với tỉ lệ xơ sợi giấy thu hồi được lên tới 95% khi tái chế giấy phế liệu thông thường, vỏ hộp giấy đựng đồ uống khi tái chế cho tỉ lệ xơ sợi giấy thu hồi thấp hơn nhiều, tối đa là 65%, vì đặc điểm cấu tạo nhiều lớp gồm giấy và nhôm – nhựa. Mặc dù sản phẩm giấy tái chế từ vỏ hộp giấy đựng đồ uống hầu như được đảm bảo đầu ra nhờ chất lượng tốt và có tập khách hàng trung thành, nhưng lợi nhuận bị bào mòn vì chi phí tái chế cao (do tỉ lệ thu hồi xơ sợi giấy thấp cùng chi phí nhân công, năng lượng và hao mòn thiết bị cao vì phải thêm nhiều công đoạn xử lý).

“Do đó, tôi đánh giá rất cao việc năm 2022 Tetra Pak đã quyết định đầu tư 1,2 triệu EUR vào Đồng Tiến, trong tổng số tiền 3,5 triệu EUR cần đầu tư cùng chúng tôi”, ông Sơn chia sẻ. Khoản đầu tư đã giúp tăng công suất tái chế vỏ hộp giấy đựng đồ uống lên tối đa 23.000 tấn mỗi năm.

Vỏ hộp giấy đựng đồ uống sẽ được tái chế thành 2 sản phẩm chính là giấy và tấm lợp. Mặc dù tấm lợp sinh thái có ưu điểm về hạn chế tiếng ồn (âm thanh) và cách nhiệt tốt hơn tấm lợp tole kẽm, nhưng câu chuyện tiêu thụ lại không suôn sẻ như với giấy. Tuổi thọ ngắn hơn và không linh hoạt về quy cách, lắp đặt phức tạp hơn là những điểm yếu lớn cản trở tấm lợp thâm nhập thị trường. “Do chúng tôi không có chuyên môn sâu trong lĩnh vực gia công sản phẩm nhựa nên sản phẩm có giá thành cao, chất lượng còn hạn chế, không cạnh tranh được với các sản phẩm tấm lợp khác”, ông Sơn cho biết. Đến nay, Đồng Tiến đã buộc phải dừng việc sản xuất và đang thương thảo với Tetra Pak về việc “đưa nhôm nhựa tách được về với người có chuyên môn để xử lý hiệu quả hơn”. “Việc tái chế này dù rất nỗ lực cải tiến nhưng hầu như chỉ đủ hòa vốn”, ông Sơn nói.

Là kỹ sư chuyên ngành giấy tốt nghiệp Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 1985, dường như nghề giấy đã chọn ông Sơn. Sau 3 năm phụ trách một xưởng sản xuất vỏ xe tại nhà máy A43 Cục Hậu cần Không quân, ông chính thức bước chân vào ngành giấy từ năm 1988 bằng việc gia nhập Công ty Sản xuất và Thương mại Bao bì Packsimex thuộc Bộ Thương mại, sau đó làm Phó Giám đốc tại xí nghiệp Visingpack, đơn vị liên doanh với Singapore của Công ty.

Cũng trong thời gian này, ông cùng vài người bạn cùng trường thành lập Công ty Đồng Tiến tại quận 12 vào năm 1994. Mười năm sau, cơ sở sản xuất nhỏ với máy móc thô sơ tự thiết kế và lắp đặt tại quận 12 đã chuyển mình thành một nhà máy tái chế giấy có quy mô công nghiệp tại tỉnh Bình Dương với dây chuyền nhập khẩu. Bằng việc mua lại một nhà máy tại Long An năm 2017 và nhà máy tại Bình Dương năm 2021, công suất của Đồng Tiến hiện đã tăng gần 2,5 lần, từ 42.000 tấn lên khoảng 100.000 tấn mỗi năm. Nguồn nguyên liệu chính của Công ty là giấy tái chế, trong đó 1/3 là giấy phế liệu thu mua trong nước và 2/3 phải nhập khẩu.

Là một ngành công nghiệp phụ trợ, mảng kinh doanh bao bì giấy của Đồng Tiến đang chứng kiến sự sụt giảm doanh số và biên lợi nhuận khi các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như đồ gỗ, thủy sản, dệt may, da giày, sản phẩm và linh kiện điện tử… giảm đơn hàng từ giữa năm 2022 đến nay. Do đó, mục tiêu trở thành đơn vị “tiên phong trong lĩnh vực tái chế giấy đặc chủng tại Việt Nam với sản lượng 180.000 tấn mỗi năm vào năm 2027” được đặt ra từ năm 2019 có thể sẽ cần thêm một vài năm mới đạt được. “Chúng tôi bị chậm lại vì dịch COVID-19, nhưng chúng tôi sẽ đạt được mục tiêu đặt ra”, ông Sơn nói.

Ông Sơn cho biết chỉ mới 40% công suất của dây chuyền tái chế vỏ hộp giấy đựng đồ uống của Đồng Tiến được đáp ứng trong năm 2023, tương đương hơn 3.000 tấn. Con số này chỉ chiếm khoảng 3-4% so với tổng lượng phát thải. “Đây là tỉ lệ thu gom rất thấp nếu so với tỉ lệ thu gom các loại giấy đã qua sử dụng nói chung ở Việt Nam hiện nay là gần 50%, mức trung bình thế giới là gần 60% và đặc biệt Nhật có tỉ lệ thu gom lên tới 82%”, ông phân tích.

Sở dĩ tỉ lệ thu gom loại bao bì giấy này thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ thu gom giấy đã sử dụng vì tính chất cồng kềnh và dễ phân hủy chất lỏng còn lại bên trong gây ô nhiễm, mùi hôi và hầu hết các các doanh nghiệp tái chế giấy hiện nay từ chối thu mua loại bao bì giấy này. Nếu thu gom được hoàn toàn vỏ hộp giấy đựng đồ uống tại Việt Nam để tái chế, con số có thể lên đến hơn 100.000 tấn mỗi năm. Với tổng công suất dự kiến đạt tối đa 23.000 tấn của Đồng Tiến vào giữa năm 2024, sân chơi tái chế vỏ hộp giấy đựng đồ uống rõ ràng không độc quyền mà rộng mở với các tay chơi mới, nhất là tại các trung tâm kinh tế lớn.

“Tôi nghĩ rất cần có thêm những doanh nghiệp tái chế giấy tâm huyết khác cùng tham gia vào hoạt động này”, vị CEO đam mê tái chế giấy tâm sự.

Nguồn: Nhipcaudautu.vn & VPPA

ANDRITZ khởi động dây chuyền sản xuất khăn giấy thứ hai tại Giấy Xương Giang, Việt Nam

Giống như máy do ANDRITZ cung cấp vào năm 2020, máy giấy tissue PrimeLineCOMPACT S 1300 mới xử lý bột giấy nguyên thủy để sản xuất giấy lau mặt, giấy vệ sinh và khăn giấy chất lượng cao với tốc độ 1.300 m/phút và chiều rộng giấy 2,85 mét. Nó được trang bị 12 ft. PrimeDry Steel Yankee với máy hút mùi làm nóng bằng hơi nước đảm bảo sấy khô hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí năng lượng. ANDRITZ cũng cung cấp chăn, lưới, lô cuộn và hệ thống tự động hóa phù hợp, bao gồm máy PrimeControl và hệ thống điều khiển phân tán.

Bộ phận chuẩn bị nguyên liệu được chia thành các hệ thống riêng biệt dành cho sợi ngắn và sợi dài với quá trình nghiền bột nồng độ cao (HC) để đạt được chất lượng sợi tốt hơn về độ bền, độ mềm và độ thấm hút so với các hệ thống có nồng độ thấp thông thường. Nghiền bột nồng độ cao HC cũng cho phép tiết kiệm sợi dài và do đó giảm chi phí sản xuất. Đây là lần đầu tiên một hệ thống nghiền HC như vậy được lắp đặt trong sản xuất giấy tissue ở Đông Nam Á. Phạm vi cung cấp của ANDRITZ cũng bao gồm hệ thống dòng tiếp cận, thiết bị xử lý sự cố và thu hồi xơ sợi cũng như máy bơm.

Ông Trần Xuân Nam, Giám đốc Nhà máy Giấy Xương Giang, cho biết: “Mặc dù chúng tôi đã trải qua dây chuyền giấy tissue ANDRITZ đầu tiên nhưng chúng tôi vẫn rất vui mừng khi thấy cuộn giấy đầu tiên được sản xuất từ dây chuyền thứ hai. Chúng tôi tự hào có thể tiếp tục và mở rộng chiến lược sản xuất giấy tissue chất lượng cao bền vững. Đặc biệt là hệ thống nghiền bột nồng độ cao và lô Yankee thép có nắp gia nhiệt bằng hơi nước tạo nên sự khác biệt về chất lượng xơ sợi và hiệu quả năng lượng.”

Máy giấy tissue PrimeLine cho Giấy Xương Giang là chiếc máy thứ 5 được ANDRITZ cung cấp cho thị trường Việt Nam trong những năm gần đây và một lần nữa chứng minh vị thế của ANDRITZ là nhà cung cấp hàng đầu cho ngành giấy giấy Châu Á.

Nguồn: papnews.com

Biên dịch và tổng hợp VPPA

Căng thẳng ở Biển Đỏ tăng cao, đe dọa nghiêm trọng an ninh hàng hải

Ngày 7/4, lực lượng Houthi ở Yemen cho biết họ đã phóng tên lửa và tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào các tàu của Anh, Mỹ và Israel.

Đây là vụ tấn công mới nhất của lực lượng này nhằm vào các tàu thuyền ở Biển Đỏ.

Trong thông báo, Houthi cho biết hoạt động nêu trên diễn ra trong 72 giờ qua.

Phía Houthi đã nhắm vào một tàu của Anh và một số tàu khu trục của Mỹ ở Biển Đỏ, trong khi cũng tấn công 2 tàu của Israel ở Biển Arab và Ấn Độ Dương khi những tàu này trên hành trình tới các cảng của Israel.

Trong khi đó, Bộ Chỉ huy Trung tâm Mỹ cho biết đã phá hủy 1 hệ thống tên lửa đất đối không di động của lực lượng Houthi trong ngày 6/4 và bắn hạ 1 thiết bị bay không người lái trên Biển Đỏ. Tuy nhiên, không có thương vong hoặc thiệt hại nào được ghi nhận.

Thời gian qua, liên quân Mỹ-Anh và Houthi liên tục có các cuộc tấn công lẫn nhau ở khu vực Biển Đỏ.

Tình trạng trên đã khiến căng thẳng ở khu vực này tăng cao, đe dọa nghiêm trọng an ninh, an toàn hàng hải.

Bất ổn an ninh ở Biển Đỏ đã buộc nhiều hãng vận tải biển tạm ngừng hoạt động vận chuyển qua Biển Đỏ và chuyển hướng sang tuyến đường biển dài hơn và đắt đỏ hơn quanh Mũi Hảo Vọng ở cực Nam châu Phi./.

Nguồn: Báo Hải quan

Báo cáo đánh giá tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và kiến nghị

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá nhanh tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và đưa ra các kiến nghị. Chúng tôi xin phép được đăng tải nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.

Đánh giá chung

Ngày 28/11/2023, Quốc hội đã thông qua Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); có hiệu lực từ ngày 1/1/2025. Theo đó, Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi (2023) gồm 10 chương, 83 điều (so với 6 chương, 82 điều tại Luật Kinh doanh Bất động sản 2014); trong đó có nhiều điểm mới quan trọng, thể chế hóa chủ trương, định hướng của Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 16/6/2022, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán với Luật Nhà ở sửa đổi (2023), Luật Đất đai (sửa đổi) 2024 và các luật liên quan khác.

Đây là dự án Luật quan trọng; tác động đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi cùng với Luật đất đai sửa đổi, Luật Nhà ở sửa đổi (cùng có hiệu lực từ 1/1/2025) là bước tiến lớn về hoàn thiện thể chế, thúc đẩy thị trường đất đai, xây dựng và bất động sản (BĐS) Việt Nam phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững hơn.

Thứ nhất, thống nhất và bổ sung nhiều khái niệm pháp lý quan trọng:

Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi thống nhất và làm rõ hơn phạm vi áp dụng với nhiều trường hợp cụ thể như: tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh BĐS thì phải đáp ứng các điều kiện của Luật Đầu tư; đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật về nhà ở; việc cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai…v.v.

Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung, làm rõ các khái niệm liên quan đến kinh doanh BĐS, kinh doanh dịch vụ BĐS, chuyển nhượng dự án BĐS, hợp đồng kinh doanh BĐS, hợp đồng kinh doanh dịch vụ BĐS…v.v. Đáng chú ý nhất, Luật đã làm rõ các loại BĐS theo công năng (bổ sung quy định cụ thể về các loại hình công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; bao gồm công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng, thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp) và bổ sung “phần diện tích sàn xây dựng” (trong công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình thành trong tương lai, bao gồm công trình xây dựng có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng, thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có công năng phục vụ hỗn hợp) vào các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.

Đây là các điểm mới quan trọng, góp phần giảm tình trạng chồng chéo, mỗi nơi hiểu 1 kiểu, cán bộ thực thi không biết làm thế nào gây ảnh hưởng đến khâu thực thi pháp luật còn yếu như hiện nay; từ đó giúp giảm thời gian, chi phí triển khai dự án của DN, tăng nguồn cung để người dân có nhiều lựa chọn với mức giá hợp lý hơn. Với tổ chức tài chính, khung pháp lý được hoàn thiện và nhất quán sẽ hỗ trợ hoạt động đầu tư, cho vay, chuyển nhượng dự án và xử lý nợ xấu được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, tác động tích cực này phụ thuộc nhiều vào khâu hướng dẫn và thực tế triển khai thực hiện sau này.

Đồng thời, việc Luật lần này bổ sung quy định về phần diện tích sàn xây dựng trong các công trình xây dựng cụ thể sẽ khắc phục bất cập hiện nay khi Luật Kinh doanh bất động sản 2014 chưa điều chỉnh các loại hình sản phẩm BĐS mới phát sinh trong thực tiễn như Condotel, Officetel…v.v. Các loại hình sản phẩm này chính là phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng (mỗi “căn hộ du lịch – condotel” là một phần diện tích của công trình xây dựng các condotel), do đó, Luật mới tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho việc đầu tư, kinh doanh các sản phẩm condotel, officetel… đã có trên thực tế. Đồng thời, quy định mới cũng có khả năng bao quát hơn (quy định “quét”) nếu trong thực tiễn có thêm các sản phẩm BĐS mới trong các công trình xây dựng này.

Thứ hai, việc công khai thông tin BĐS đưa vào kinh doanh được quy định chặt chẽ hơn và bổ sung các hành vi bị cấm. Luật sửa đổi đã chi tiết hóa, hướng dẫn cụ thể về các thông tin cần cung cấp (Điều 6) gồm: địa điểm công bố thông tin, các thông tin về dự án BĐS, các thông tin về nhà ở, công trình xây dựng, về quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS…v.v. Đồng thời, để hạn chế các sai phạm, tranh chấp như trong thời gian qua, Luật sửa đổi đã bổ sung, làm rõ một số hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8); đáng chú ý như: (i) giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch, không công bố thông tin; (ii) huy động và sử dụng tiền thu bên mua, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng hình thành không đúng quy định của pháp luật; (iii) cấp và sử dụng chứng chỉ hành nghề môi giới BĐS không đúng quy định của pháp luật kinh doanh bất động sản….v.v.

Các nội dung này góp phần tăng sự công khai, minh bạch về thông tin dự án, giúp người mua có khả năng tiếp cận thêm nhiều thông tin hơn. Đặc biệt, Luật sửa đổi quy định rõ các thông tin phải được cập nhật khi có sự thay đổi sẽ ràng buộc thêm trách nhiệm của chủ đầu tư, tăng khả năng bảo vệ người mua, giảm rủi ro tranh chấpTheo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý hướng dẫn phương thức cung cấp thông tin, chế tài và tính tuân thủ pháp luật.

Thứ ba, quy định rõ và tăng điều kiện kinh doanh BĐS. Luật sửa đổi (Điều 9) quy định, khi đồng thời thực hiện nhiều dự án đầu tư BĐS, DN kinh doanh BĐS phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư; trường hợp DN kinh doanh BĐS đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án. Đồng thời, Luật sửa đổi cũng quy định các điều kiện như phải lập DN hoặc hợp tác xã (trừ quy mô nhỏ hoặc không nhằm mục đích kinh doanh), hạn mức dư nợ tín dụng và TPDN… và giao Chính phủ quy định chi tiết việc xác định kinh doanh BĐS quy mô nhỏ.

Đây là nội dung quan trọng, góp phần hạn chế rủi ro một DN thực hiện nhiều dự án mà không đủ năng lực tài chính như thời gian vừa qua, gây ra nhiều hệ lụy cho thị trường, người mua; tăng tính “chính thống” và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước khi kinh doanh BĐS. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý khâu hướng dẫn, giám sát và chế tài triển khai sau này.

Thứ tư, mở rộng quyền kinh doanh BĐS của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam. Luật đã bổ sung việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì được kinh doanh BĐS theo các hình thức tương đồng với công dân Việt Nam ở trong nước (Điều 10). Trường hợp, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì tiếp tục thực hiện như Luật KD BĐS 2014 (chủ yếu là “đầu tư, cho thuê, thuê mua” nhà ở, hạ tầng kỹ thuật; không quy định được “mua” nhà ở)Quy định này sẽ giúp đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, phát triển BĐS tại Việt Nam một cách hợp lý, trong kiểm soát; làm rõ điều kiện được “mua” nhà ở. Theo đó, các cơ quan chức năng cần lưu ý xây dựng các quy định về việc quản lý “chính chủ” do việc xác định trong thực tế sẽ không dễ dàng.

Thứ năm, kết cấu lại, bổ sung, làm rõ các quy định liên quan đến từng loại hình BĐS được đưa vào kinh doanh tại các Chương II (Kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn), Chương III (Kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai) và Chương IV (Kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS), trong đó, các nội dung mới đáng chú ý như sau:

– Đối với việc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng có sẵn: Luật quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu là khi bên mua, bên thuê mua đã nhận bàn giao nhà ở, công trình xây dựng (trong khi quy định hiện tại là khi bên bán bàn giao nhà, công trình xây dựng cho bên mua). Như vậy, so với Luật 2014, Luật sửa đổi đã quy định rõ hơn về việc quyền sở hữu chỉ được xác lập khi bên mua đã chấp nhận nhận bàn giao nhà ở, từ đó giúp hạn chế các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi của người mua BĐS.

– Đối với việc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Nhiều quy định mới đã được bổ sung hoặc làm rõ hơn như: (i) quy định chi tiết, cụ thể hơn các điều kiện đưa nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai vào kinh doanh (Điều 24); (ii) luật hóa việc triển khai hình thức đặt cọc vốn đang gặp nhiều sai phạm trong thời gian qua (cho phép chủ đầu tư dự án BĐS được phép thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua) (Điều 23); (iii) giảm tỷ lệ thanh toán khi mua nhà ở hình thành trong tương lai, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà ở, không quá 95% khi bên mua, bên thuê mua chưa được cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Đối với giao dịch thuê mua, số tiền thanh toán trước cho bên cho thuê mua không quá 50% giá trị nhà ở (thay vì 70% như hiện nay); (iv) cho phép người mua được lựa chọn việc có hoặc không có bảo lãnh cho nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với mình (Điều 26). Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần lưu ý làm rõ, nếu người mua không yêu cầu có bảo lãnh NH, thì chủ đầu tư phải có bảo lãnh NH trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai hay không? (Điều 26 chưa nêu rõ).

Đây là các nội dung mang tính đột phá, giúp đa dạng hóa các hình thức huy động vốn của chủ đầu tư để giảm áp lực dòng tiền khi triển khai dự án; đảm bảo thống nhất triển khai giữa các Bộ, ngành, địa phương và thực hiện cam kết của DN khi thực hiện dự án BĐS; tăng lựa chọn cho khách hàng về khía cạnh bảo lãnh, góp phần giảm chi phí giá thành (do có thể chủ đầu tư tính chi phí bảo lãnh vào giá BĐS). Tuy nhiên, người mua nhà cũng sẽ phải chấp nhận rủi ro nhất định (khi không có bảo lãnh). Vì thế, việc xem xét lựa chọn kỹ chủ đầu tư, tính pháp lý và khả thi của dự án là rất quan trọng.

– Đối với việc kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS: Luật sửa đổi quy định chặt chẽ hơn về việc kinh doanh quyền sử dụng đất, cụ thể: (i) Bổ sung các quy định về việc phải hoàn thành hạ tầng kỹ thuật để đưa quyền sử dụng đất vào kinh doanh (Điều 29); (ii) Không cho phép phân lô, bán nền tại khu vực phường, quận, thành phố của đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III; và trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư dự án xây dựng nhà ở theo quy định của Luật Đất đai 2024 thì không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân tự xây dựng nhà ở (Điều 31). Các quy định mới này là rất cần thiết để kiểm soát tình trạng phân lô, bán nền khi chưa đáp ứng các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, hạn chế lừa đảo bán đất trên giấy đã xảy ra trong thời gian qua, cũng như đảm bảo các điều kiện sinh hoạt, an sinh xã hội của khu vực dự án.

Hai là, làm rõ hơn điều kiện của dự án chuyển nhượng (Điều 40) như dự án không bị đình chỉ, phải thực hiện giải chấp nếu đang thế chấp, dự án còn trong thời gian thực hiện, dự án chuyển nhượng một phần phải đảm bảo tính độc lập của phần chuyển nhượng; bổ sung trách nhiệm của bên nhận chuyển nhượng là phải cam kết tiếp tục triển khai dự án theo đúng nội dung đã được phê duyệt, nếu thay đổi thì phải xin phép, phải hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ tài chính trước khi chuyển nhượng; việc chuyển nhượng dự án phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật liên quan như đầu tư, đất đai. Ba là, hướng dẫn chi tiết hơn về thẩm quyền chuyển nhượng dự án BĐS (Điều 41) bằng việc bổ sung trường hợp thực hiện theo Luật Đầu tư: nếu dự án được chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư và bổ sung trường hợp Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho UBND cấp tỉnh cho phép chuyển nhượng.

Tuy nhiên, cần lưu ý, các điều kiện chuyển nhượng dự án BĐS có liên quan đến nợ xấu chưa được quy định rõ và việc chuyển nhượng cũng sẽ phức tạp hơn đối với DNNN (vì còn phải tuân theo các quy định của Luật quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp).

Thứ bảy, quy định trường hợp bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt. Luật quy định khi trong giao dịch mà 1 bên là chủ đầu tư dự án, DN kinh doanh BĐS, DN kinh doanh dịch vụ BĐS thì phải thanh toán thông qua tài khoản mở tại một TCTD đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (Điều 48). Đồng thời, tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải ghi đúng giá giao dịch thực tế vào trong hợp đồng; chịu trách nhiệm trong việc ghi giá giao dịch trong hợp đồng không đúng với giá giao dịch thực tế (Điều 47). Quy định này là cơ sở quan trọng để hạn chế tình trạng 2 giá trong giao dịch BĐS, gây thất thu thuế và khó khăn trong việc xây dựng dữ liệu BĐS cũng như định giá BĐS sau này.

Thứ tám, hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động của sàn giao dịch BĐS và môi giới, tư vấn và quản lý BĐS. Luật sửa đổi khuyến khích các giao dịch BĐS được thực hiện qua sàn giao dịch BĐS; bổ sung, làm rõ nhiều quy định liên quan đến nguyên tắc, điều kiện thành lập, hoạt động của sàn giao dịch BĐS (có thể giao dịch điện tử) và hoạt động môi giới BĐS. Tuy nhiên, Luật giao Chính phủ quy định, hướng dẫn chi tiết khá nhiều đối với nội dung này.

Một số quy định cụ thể đáng lưu ý như: (i) hoạt động môi giới BĐS phải có cơ sở vật chất, có nhân sự đáp ứng các tiêu chí chuyên môn, có quy chế hoạt động…; (ii) cá nhân hành nghề môi giới, tư vấn BĐS phải hoàn thành các khóa đào tạo hàng năm, có chứng chỉ hành nghề; không cho phép cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới BĐS độc lập (như vừa qua) mà phải là nhân viên của công ty môi giới BĐS; (iii) cá nhân môi giới không được hưởng hoa hồng môi giới trực tiếp từ khách hàng; (iv) qui định rõ điều kiện đối với cơ sở đào tạo kiến thức hành nghề môi giới, điều hành sàn BĐS; (v) qui định rõ các chương trình đào tạo phải theo Chương trình khung do Bộ Xây dựng ban hành.

Các quy định mới này kỳ vọng sẽ tạo tiền đề để từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp, minh bạch và để sàn giao dịch, môi giới BĐS phát huy đúng vai trò của mình. Theo đó, người mua nhà cũng được hưởng lợi, quyền lợi được bảo đảm hơn khi hoạt động trên thị trường BĐS hướng đền minh bạch và chuyên nghiệp hơn.

Thứ chín, quy định chi tiết về việc quản lý thông tin, dữ liệu và quản lý, điều tiết Nhà nước về kinh doanh BĐS. Nhận thức được tầm quan trọng của vai trò quản lý, điều tiết nhà nước cũng như hệ thống thông tin, dữ liệu về kinh doanh BĐS, đặc biệt trong bối cảnh số hóa, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động kinh doanh, quản lý BĐS như hiện nay, Luật sửa đổi đã kết cấu lại Chương V (Quản lý nhà nước về kinh doanh BĐS) thành 2 chương gồm Chương VIII (Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về nhà ở và thị trường BĐS) và Chương IX (Quản lý nhà nước về kinh doanh BĐS). Trong đó, Luật đã bổ sung, làm rõ nhiều nội dung và xác định rõ vai trò của các chủ thể liên quan, cũng như giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nhiều nội dung quan trọng để thống nhất triển khai trên toàn quốc. Tuy nhiên, Chính phủ sẽ cần quy định cụ thể trách nhiệm xây dựng, quản lý và khai thác thông tin, dữ liệu về thị trường BĐS và cho phép thí điểm một số nội dung còn chưa được giải quyết trong Luật như có chính sách thí điểm về việc dùng “đất khác” làm nhà ở thương mại nhằm giải quyết các vướng mắc hiện nay.

Thứ mười, các quy định chuyển tiếp được cụ thể hóa, góp phần giải quyết các trường hợp cụ thể và giúp DN, người dân có thêm thời gian chuẩn bị để đáp ứng các quy định mới của Luật. Luật sửa đổi quy định 13 trường hợp chuyển tiếp và cho phép các DN BĐS hoàn thiện các điều kiện hoạt động để đáp ứng quy định mới trong vòng 6 tháng kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành. Đồng thời, Luật mới quy định chi tiết về việc tiếp tục áp dụng Luật cũ 2014 hay áp dụng Luật sửa đổi 2023 đối với một số trường hợp như: dự án BĐS đã thực hiện xong thủ tục đầu tư, dự án BĐS thực hiện thủ tục điều chỉnh, chuyển nhượng dự án BĐS, ký hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, bảo lãnh ngân hàng…v.v.

Báo cáo đánh giá tác động của Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi (2023) và kiến nghị- Ảnh 2.

Ảnh minh họa

Để đảm bảo Luật mới đi vào cuộc sống, Nhóm Nghiên cứu có sáu (6) kiến nghị

– Một là, Chính phủ chỉ đạo sớm ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đảm bảo nhất quán, đồng bộ giữa Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS sửa đổi cùng với các luật liên quan khác (nhằm khắc phục chồng chéo, vướng mắc, đảm bảo hiệu lực thực thi…), trong đó cần lưu ý các điều khoản chuyển tiếp và cho phép thí điểm những vấn đề còn chưa “chín”, còn tranh luận nhiều nhưng thực tiễn thị trường đòi hỏi điều tiết.

– Hai là, Chính phủ cần quan tâm xây dựng cơ sở thông tin, dữ liệu, chỉ số giá BĐS; ban hành qui định về xây dựng và khai thác cơ sở thông tin, dữ liệu đất đai, BĐS, trong đó cần quy định rõ trách nhiệm, cách thức thực hiện, phối hợp trong việc cung cấp, quản lý, khai thác thông tin, dữ liệu đất đai, BĐS…của các tổ chức, cá nhân liên quan; có giải pháp cụ thể nâng cao năng lực quản lý, điều tiết thị trường đất đai, BĐS, hướng tới công khai, minh bạch và chuyên nghiệp hơn.

– Ba là, cần sớm ban hành Đề án thí điểm cho phép thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng “đất khác” (không phải là đất ở); việc thí điểm nên được triển khai tại một số tỉnh, thành phố lớn… để tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc cho các dự án BĐS (đặc biệt các dự án nhà ở xã hội, nhà ở thương mại).

– Bốn là, chú trọng nội dung liên quan đến yêu cầu về chuyển đổi số, ứng dụng CNTT, chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng trong phát triển, quản lý, sử dụng đất đai và BĐS phù hợp với xu hướng hiện nay và góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam tại Cop26 (2021).

– Năm là, xem xét bổ sung, làm rõ một số nội dung của Luật sửa đổi tại các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, nhất là 4 trường hợp cụ thể sau:

(i) Về điều kiện chuyển nhượng 1 phần hoặc toàn bộ dự án BĐS: Luật sửa đổi quy định chủ đầu tư chuyển nhượng phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính về đất đai của dự án. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển dự án đầu tư, kinh doanh BĐS là một quá trình, gồm nhiều công đoạn (bồi thường, giải phóng mặt bằng; quy hoạch, thiết kế; làm hồ sơ, thủ tục và nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội; đầu tư xây dựng các công trình kiến trúc theo quy hoạch và thiết kế đã được duyệt…). Chuyển nhượng dự án là hoạt động giữa các nhà đầu tư với nhau, chưa phải là chuyển nhượng nhà ở, BĐS cho người mua cuối cùng. Nếu DN bên chuyển nhượng chưa hoàn tất các thủ tục hoặc công đoạn đầu tư, thì bên nhận chuyển nhượng dự án sẽ tiếp tục hoàn tất các công việc này. Vì vậy, quy định này có thể chưa thực sự phù hợp với thực tế, có thể kéo dài thủ tục, thời gian chuyển nhượng dự án.

(ii) Về trường hợp chuyển nhượng dự án mà bên nhận chuyển nhượng là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Luật sửa đổi quy định sẽ thực hiện theo Luật Đất đai 2024 (trong khi đó Luật Kinh doanh BĐS 2014 thì quy định bên chuyển nhượng phải làm thêm thủ tục trả lại đất cho Nhà nước, trong khi tổ chức kinh tế trong nước thì không cần). Vì vậy, cần lưu ý vấn đề này khi hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2024 và Luật Kinh doanh BĐS 2023, đảm bảo nhất quán và công bằng giữa tổ chức kinh tế trong nước và có vốn nước ngoài.

(iii) Về việc chuyển nhượng hợp đồng thuê BĐS: Luật sửa đổi chưa quy định việc chuyển nhượng hợp đồng thuê BĐS. Điều này có thể dẫn tới bên thuê không thực hiện được việc chuyển nhượng hợp đồng thuê do một số cơ quan từ chối thực hiện thủ tục liên quan với lý do chưa có quy định của pháp luật hướng dẫn trình tự, thủ tục hoặc mức thuế khi chuyển nhượng hợp đồng thuê.

(iv) Về việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai: Luật sửa đổi quy định việc chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS không bao gồm trường hợp mua bán công trình xây dựng hình thành trong tương lai, trong khi căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, officetel đang nhận được sự quan tâm, đầu tư khá lớn từ người dân và doanh nghiệp. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể nội dung này.

– Cuối cùng, tăng cường tuyên truyền, phổ biến về các đạo luật đã được thông qua (nhất là Luật đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS, Luật các TCTD sửa đổi…, đặc biệt là các điểm mới, đáng chú ý và có nhiều tác động cũng như các điểm cần được làm rõ, cần được hướng dẫn đầy đủ, chi tiết hơn) cho người dân, tổ chức và các bên liên quan nhằm tăng hiểu biết, nhận thức, tuân thủ và góp ý chính sách, tăng hiệu lực thực thi trong thực tiễn.

H. Kim (Ghi theo Báo cáo của Nhóm tác giả)

An ninh Tiền tệ

Tăng trưởng kinh tế phù hợp với thực tế

Theo bà, tốc độ tăng trưởng GDP quý I năm nay là cao hay thấp?

Kinh tế thế giới được dự báo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng GDP quý I/2024 là 5,66%. Đây là kết quả tương đối khả quan, cho thấy nền kinh tế đã dần lấy được đà phục hồi với các chỉ số vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước đạt 4,63 tỷ USD, tăng hơn 7% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,2%), là động lực hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế các quý tiếp theo.

Sản xuất công nghiệp tiếp tục xu hướng hồi phục; tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ còn 68,7% trong khi cùng kỳ năm 2023 là hơn 81%. Lĩnh vực nông nghiệp tăng trưởng ổn định tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế, đảm bảo an toàn an ninh lương thực quốc gia, đồng thời gia tăng cho hoạt động xuất khẩu nông sản, thủy sản giá trị cao.

Có thể thấy, những yếu tố từ bên ngoài đã tác động khá tích cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước…?

Với nền kinh tế mở, thì bên ngoài tác động rất mạnh đến Việt Nam, cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhờ yếu tố tích cực từ bên ngoài, nên trong 3 tháng đầu năm, khách quốc tế đến Việt Nam tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2019. Điều này cho thấy, hoạt động du lịch không chỉ phục hồi, mà đã tăng trưởng so với thời điểm trước khi xảy ra đại dịch. Nhờ đó, hoạt động thương mại, dịch vụ sôi động và duy trì mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động ngoại thương tiếp tục đà tăng trưởng: kim ngạch xuất khẩu đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17%; kim ngạch nhập khẩu đạt 84,98 tỷ USD, tăng gần 14%. Đặc biệt, Chỉ số  Tâm lý tiêu dùng hay Chỉ số Niềm tin tiêu dùng tại một số thị trường là đối tác thương mại chính của Việt Nam như EU và Mỹ tăng là những tín hiệu tốt để dự báo sự khả quan của hoạt động xuất nhập khẩu trong các quý tiếp theo.

Kết quả đạt được kể trên là so với quý I/2023 (GDP chỉ tăng trưởng 3,32%), nhưng nếu so với quý IV/2023, thì kết quả không đẹp như vậy?

Quý IV/2023, GDP tăng trưởng 6,72%, cao nhất năm 2023. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,13%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,35% và dịch vụ tăng 7,29%. Sự chuyển biến tích cực của khu vực công nghiệp sau thời kỳ suy giảm âm (-0,73%) của quý I và chỉ tăng nhẹ 0,86% của quý II/2023 cho thấy sản xuất đã bước đầu hồi phục. Khu vực dịch vụ là động lực chính đóng góp cho tăng trưởng có xu hướng phục hồi tốt, cho thấy kinh tế đang hồi phục và tốt dần lên theo hướng quý sau tốt hơn quý trước.

Bối cảnh kinh tế toàn cầu được dự báo còn nhiều khó khăn, thách thức, cầu tiêu dùng thấp, cuộc chiến chống lạm phát của nhiều nền kinh tế lớn vẫn còn chật vật, bất ổn xung đột chính trị kéo dài… là những yếu tố bất lợi tiếp tục tác động tới nền kinh tế Việt Nam.

Kết quả tăng trưởng của quý I/2024 nếu so với quý IV/2023 thì chưa đột phá, nhưng tạo đà tăng trưởng cho các quý tiếp theo và dự báo về một triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ cho năm 2024. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phục hồi còn chậm, còn yếu, do suy giảm nhu cầu tiêu dùng toàn cầu.

Vì vậy, trong các quý tiếp theo, cần có nhiều giải pháp hiệu quả để “cỗ xe tứ mã” gồm thể chế và môi trường pháp lý được đổi mới đồng bộ cho phát triển kinh tế; tiêu dùng của thị trường trong nước được thúc đẩy mạnh mẽ; đầu tư công được thực hiện nhanh, tạo lan tỏa tới đầu tư tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ được đẩy mạnh.

Nhìn rộng ra, nếu so với thời kỳ trước đại dịch (năm 2019) thì sao, thưa bà?

Giai đoạn 2021-2023, nền kinh tế đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của đại dịch. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả ấn tượng so với nhiều nền kinh tế trên thế giới.

Những tháng đầu năm 2024, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng hoạt động thương mại, vận tải, du lịch đã dần hồi phục và lấy lại đà tăng trưởng gần như trước khi đại dịch xảy ra. Trong khu vực sản xuất, sự đứt gãy chuỗi cung ứng cũng dần hồi phục, sản xuất ở một số ngành trọng điểm đã và đang dần thoát khỏi tăng trưởng âm và đạt mức tăng trưởng khá.

Tuy nhiên, so với giai đoạn trước Covid-19, kinh tế nước ta chưa hoàn toàn phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng. Cụ thể, tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước và dân cư) quý I/2024 ước tăng 4,93%, cao nhất trong các quý I từ năm 2020 đến nay, nhưng vẫn thấp hơn các quý I từ năm 2017-2019. Tích lũy tài sản quý I/2024 ước tăng 4,69%, thấp hơn 3,26 điểm phần trăm so với năm 2019. Hoạt động xuất khẩu tăng 18% trong quý I/2024, nhưng trên nền năm 2023 với tăng trưởng âm (-8,5%); nhập khẩu quý I/2024 tăng 17,08% (năm 2023 là -11,08%).

Mức tăng trưởng GDP 5,66% trong quý I/2024 là khá ấn tượng, nhưng so với giai đoạn trước Covid-19 thì chưa thực sự phục hồi. Do vậy, cần phải kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát giá cả, thị trường, bảo đảm cung ứng hàng hóa và các cân đối lớn của nền kinh tế; đẩy mạnh tiêu dùng và phát triển thị trường trong nước; thúc đẩy giải ngân đầu tư công để đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế.

Với đà tăng trưởng khá ấn tượng trong quý I, mới đây, Ngân hàng Standard Chartered dự báo, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,7% trong năm 2024. Theo bà, liệu có đạt được mức tăng trưởng này?

Bước sang năm 2024, kinh tế thế giới vẫn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài. Thương mại hàng hóa toàn cầu phục hồi chậm. Thị trường hàng hóa thế giới biến động do ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội của các nước. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gay gắt, xung đột quân sự Nga – Ukraine và tại dải Gaza kéo dài, bất ổn leo thang trên Biển Đỏ.

Cùng với đó, nhiều quốc gia tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng cầu yếu khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm. Lạm phát toàn cầu đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Do đó, hầu hết các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 thấp hơn so với năm 2023.

Trên nền tăng trưởng thấp của quý I/2023, tăng trưởng trong quý I/2024 đạt 5,66%, cao nhất kể từ năm 2020 trở lại đây. Đây là bước khởi đầu thuận lợi, tạo đà cho sự phát triển của các quý tiếp theo. Tuy nhiên, trước những bất ổn chính trị toàn cầu, những khó khăn của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thử thách, đặc biệt nội lực của nền kinh tế chưa mạnh, năng lực cạnh tranh còn yếu…

Do đó, để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP 6,7% trong năm nay như dự đoán của Standard Chartered là cực khó. Tuy nhiên, 3 quý tiếp theo nếu vẫn tiếp tục đà tăng trưởng như quý I, thì dự đoán này có thể thành hiện thực.

Nguồn: Báo đầu tư

Lần đầu tiên thu thập thông tin người nước ngoài tại Việt Nam

Bộ Công an đang triển khai Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Vậy có cần thiết tiến hành điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ?

Điều tra dân số nói chung và điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ nói riêng nhằm thu thập thông tin về con người trong đời sống kinh tế – xã hội thực tế của một khu vực địa lý, một quốc gia theo các tiêu chí được áp dụng trên toàn thế giới. Các tiêu chí này không hoàn toàn thống nhất với quy định của Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia.

Cụ thể, để xác định một người được tính vào dân số của một địa bàn hành chính nào đó, điều tra dân số dựa trên khái niệm “nhân khẩu thực tế thường trú”, là những người đã cư trú ổn định trên địa bàn từ 6 tháng trở lên hoặc chưa đủ 6 tháng, nhưng có ý định cư trú ổn định lâu dài tại địa bàn, không phân biệt họ có hay không có các giấy tờ đảm bảo cư trú cần thiết như sổ hộ khẩu, giấy đăng ký tạm trú.

Trong khi đó, để được ghi nhận vào cơ sở dữ liệu dân cư của một địa phương nào đó trong Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, công dân cần thực hiện các thủ tục đăng ký hộ khẩu, đăng ký tạm trú, nếu công dân không thực hiện các thủ tục theo quy định, thì họ không được tính là dân số của địa phương họ đang thực tế thường trú.

Ví dụ, hiện có hàng triệu người đăng ký hộ khẩu thường trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng đang sinh sống và làm việc tại Đồng Nai, Bình Dương, TP.HCM, Hà Nội… Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia ghi nhận họ ở địa phương họ đăng ký hộ khẩu thường trú, nhưng điều tra dân số ghi nhận họ là dân số của địa phương họ đang làm việc và sinh sống ổn định.

Điều này dẫn đến khác biệt về số liệu dân số quản lý trên giấy tờ nhân thân với số liệu dân số trên thực tế tại một địa phương, gây khó khăn cho công tác quản lý và phân bổ nguồn lực thực tế tại địa phương.

Vì vậy, nếu không tiến hành thu thập thông tin về dân số và nhà ở, sẽ không có cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn  2021 – 2025; không có cơ sở để Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, Quốc hội nhiệm kỳ XVI xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2026 – 2030. Hơn nữa, cũng không có dữ liệu để giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết.

Bên cạnh điều tra về dân số, lần này còn điều tra về nhà ở. Thưa ông, vấn đề là người dân bao giờ cũng “bí mật” thông tin về tài sản, đặc biệt là nhà ở, đất đai?

Cuộc điều tra giữa kỳ lần này không chỉ thu thập thông tin về dân số, mà còn thu thập các thông tin về nhà ở của hộ dân cư, cùng với một số chỉ tiêu thống kê quan trọng khác để đánh giá chất lượng cuộc sống của người dân, như tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi chưa được đăng ký khai sinh, trình độ học vấn của dân cư, đặc điểm nhà ở của hộ dân cư… Những chỉ tiêu thống kê này hiện chưa thể tính toán được từ nguồn Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia.

Ít người muốn kê khai toàn bộ tài sản, đặc biệt là tài sản có giá trị lớn như nhà đất, vì vậy, điều tra viên đến từng hộ để hỏi người cung cấp thông tin và ghi đầy đủ các câu trả lời vào Phiếu điều tra điện tử (CAPI) được thiết kế trên thiết bị di động thông minh. Để hạn chế trường hợp lời khai của chủ hộ khác với thực tế tài sản, khi thu thập thông tin về nhà ở, điều tra viên phải “mục sở thị” ngôi nhà, mảnh đất, căn hộ để ghi kết quả vào phiếu điều tra.

Người nước ngoài đến Việt Nam cư trú trong thời gian nhất định, vì sao lại điều tra thông tin của họ?

Mặc dù số liệu thống kê về người nước ngoài ở Việt Nam đã được nhiều bộ, ngành quản lý, thống kê và báo cáo, nhưng hiện nay, các số liệu này còn rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa được sử dụng để phục vụ hiệu quả công tác quản lý.

Việc thu thập thông tin về nhóm người này là cơ sở để biên soạn các chỉ tiêu thống kê, giúp bước đầu có được nguồn số liệu đáng tin cậy để đánh giá quy mô, đặc điểm kinh tế – xã hội và các đặc trưng nhân khẩu học về người nước ngoài đang cư trú ở Việt Nam. Từ đó có chính sách phù hợp tạo điều kiện cho người nước ngoài sống, làm việc, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, vì đây là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế, xã hội của bất cứ quốc gia nào.

Hơn nữa, người nước ngoài được đưa vào đối tượng điều tra nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống kê và khuyến nghị của quốc tế về thống kê dân số, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Lần đầu tiên Việt Nam điều tra người nước ngoài đang sinh sống và làm việc. Ông có nghĩ đây là vấn đề phức tạp và rất khó?

Điều tra thông tin về người nước ngoài rất khó vì họ đến từ rất nhiều nơi trên thế giới và tuyệt đại đa số không biết tiếng Việt. Trường hợp người nước ngoài nghe và nói được tiếng Việt, sẽ tiến hành phỏng vấn trực tiếp; trường hợp không biết tiếng Việt, thì hỏi thông tin qua người Việt Nam sống cùng trong hộ.

Điều tra thông tin về người nước ngoài gồm 10 câu hỏi về giới tính, tuổi, quốc tịch, nơi sinh, tình trạng di chuyển, tình trạng nhà ở của hộ… Chúng tôi kết hợp phương pháp thu thập thông tin trực tiếp (qua phiên dịch) và gián tiếp (qua phiếu điều tra) với người nước ngoài. Phiếu điều tra được dịch ra 6 ngôn ngữ gồm Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và được gửi đến hộ gia đình người nước ngoài mà toàn bộ thành viên trong gia đình không thể sử dụng tiếng Việt.

Người nước ngoài muốn sinh sống, làm việc lâu dài tại Việt Nam, nên tôi tin rằng, họ sẽ thực hiện đầy đủ pháp luật của nước sở tại, hợp tác với điều tra viên trong khai báo trung thực, đầy đủ thông tin mà cuộc điều tra yêu cầu.

Nguồn: Báo đầu tư