Ban Chỉ đạo quốc gia: ‘Virus SARS-CoV-2 đã biến chủng’

Tại Italy đã xác định đồng thời có 4 biến chủng của virus SARS-CoV-2, khác với chủng của virus được xác định tại Vũ Hán, Trung Quốc.

Sáng 11.3, Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch Covid-19 đã họp dưới sự chủ trì của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam.
Một trong những thông tin đáng chú ý tại cuộc họp là Ban Chỉ đạo quốc gia đã báo cáo việc về biến đổi gen của virus gây bệnh. Theo đó, tại Italy đã xác định đồng thời có 4 biển chủng của virus SARS-CoV-2, khác với chủng của virus được xác định tại Vũ Hán, Trung Quốc.
Bên cạnh đó, ghi nhận bệnh nhân số 17 từ Italy về Việt Nam và bệnh nhân số 20 lây nhiễm từ bệnh nhân số 17 có biểu hiện viêm phổi rõ nét (bao gồm viêm phổi kẽ), biểu hiện bệnh cũng nặng hơn so với bệnh nhân đến từ Anh (có triệu chứng mờ nhạt).
Tại cuộc họp, các thành viên Ban chỉ đạo đã thảo luận, phân tích, đánh giá tình hình dịch bệnh tại châu Âu; công tác kiểm soát dịch tễ tại cửa khẩu; quản lý người xuất nhập cảnh; tổ chức cách ly người từ vùng có dịch nhập cảnh vào Việt Nam; kiểm soát biên giới; giám sát, phát hiện người bệnh tại cộng đồng; công tác chuẩn bị tại các bộ, ngành để sẵn sàng ứng phó với các tình huống mới; khôi phục lại một số đường bay quốc tế…

Kiểm soát chặt nhập cảnh

Các thành viên Ban chỉ đạo thống nhất phải kiểm soát chặt chẽ người nhập cảnh vào Việt Nam. Theo đó, tất cả các trường hợp người nhập cảnh vào Việt Nam (kể cả người Việt Nam và người nước ngoài) đều phải khai báo y tế bắt buộc. Nếu khai báo gian dối sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Phân tích diễn biến dịch bệnh tại châu Âu, bên cạnh việc đơn phương tạm dừng chính sách miễn visa đối với 8 nước châu Âu, các thành viên Ban Chỉ đạo cũng bàn thảo vấn đề có nên báo cáo cấp thẩm quyền cho phép tổ chức cách ly tập trung đối với những người đến từ khu vực này hay không.

Theo các chuyên gia y tế, hiện nay diễn biến dịch bệnh ở khu vực này rất phức tạp, số ca mắc bệnh và tử vong tăng nhanh; khí hậu ở châu Âu mùa này cũng thuận lợi cho virus SARS-CoV-2 phát triển; người dân châu Âu có thói quen tự do đi lại, không đeo khẩu trang,… nên nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh khu vực này rất cao. Các ý kiến đại diện Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cho rằng việc tổ chức cách ly tập trung đối với người nhập cảnh từ khu vực châu Âu là cần thiết.

Tuy nhiên, một số ý kiến cũng đề nghị cân nhắc kỹ giải pháp này. Ban Chỉ đạo cho rằng bản chất việc tổ chức cách ly là sàng lọc, phát hiện những người có nguy cơ lây nhiễm để thực hiện biện pháp ngăn chặn không để dịch bệnh lây lan ra cộng đồng. Chúng ta cũng không cực đoan cho rằng tất cả mọi người đến từ các nước châu Âu đều là người có nguy cơ. Chúng ta chỉ cách ly những người có nguy cơ lây nhiễm bệnh, đó là những người đã đi qua vùng dịch, ổ dịch, có tiếp xúc gần với người đã đi qua vùng dịch… Ban Chỉ đạo giao Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao thống nhất các địa điểm được coi là vùng dịch, ổ dịch Covid-19 để báo cáo cấp thẩm quyền xem xét, quyết định.

Thực phẩm được tiếp tế cho khu vực bị cách ly

Kiên định thực hiện cách ly tập trung

Về tổ chức cách ly, Ban chỉ đạo thống nhất tiếp tục kiên định thực hiện cách ly tập trung 14 ngày, đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn, tập huấn cụ thể cho các địa phương về việc giảm mật độ cách ly và tổ chức cách ly tại cộng đồng.

Về xử lý môi trường, các đại biểu cũng đề nghị Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể về quy trình cho các địa phương thực hiện diệt khuẩn, tiêu trùng tẩy độc tại gia đình và khu vực có người nhiễm Covid-19; hướng dẫn diệt khuẩn tại các địa điểm công cộng, điểm du lịch, trường học… tránh lãnh phí không cần thiết, thậm chí gây hoang mang cho người dân. Ban chỉ đạo cũng giao Bộ Y tế hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ cho các địa phương việc phân luồng, tổ chức khám chữa bệnh cho những trường hợp cảm sốt thông thường,…
Báo cáo cập nhật tình hình dịch bệnh của Ban chỉ đạo cho biết, tính đến 20 giờ ngày 10.3, trên thế giới đã ghi nhận 114.191 trường hợp mắc Covid-19 tại 104 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó 7 quốc gia đã ghi nhận trên 1.000 trường hợp mắc, gồm: Trung Quốc (80.756); Ý (9.172); Hàn Quốc (7.513); Iran (7.161); Pháp (1.412); Tây Ban Nha (1.231) và Đức (1.224).
Thế giới đã ghi nhận 4.019 trường hợp tử vong, trong đó tại Trung Quốc đại lục là 3.136 người; Ý 463, Iran 237, Hàn Quốc 54, Pháp 30, Tây Ban Nha 30, Mỹ 27… So với ngày 9.3, số mắc tăng 3.933 người, tử vong tăng 191 người.
Theo Thanh Niên

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật tuần từ 2-6/3/2020

Trong tuần qua, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, ngày càng lan rộng, có nguy cơ bùng phát tại nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới và tác động, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu và nhiều nước, đối tác lớn của Việt Nam. Ở trong nước, dịch Covid-19 đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Trước tình hình trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19.

Để tập trung phòng chống, giảm thiểu tác động của dịch Covid-19, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, an toàn đời sống và sức khỏe của nhân dân, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và đề nghị cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước tập trung thực hiện “nhiệm vụ kép” là vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế – xã hội. Tuyệt đối không được chủ quan, lơ là, thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 trong bối cảnh dịch bệnh nguy hiểm này đang bùng phát, lan rộng ở nhiều quốc gia như hiện nay; có các phương án, giải pháp phù hợp nhằm ứng phó với mọi tình huống, không để bị động bất ngờ. Đồng thời, thực hiện ngay các biện pháp hỗ trợ cho các đối tượng, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 đã đề ra theo Kết luận của Trung ương và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương tập trung thực hiện 7 nhiệm vụ, giải pháp:

– Tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi về tiếp cận vốn, tín dụng, tài chính, thuế, thương mại, thanh toán điện tử

– Rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, chi phí cho doanh nghiệp

– Tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất, nhập khẩu

– Khẩn trương phục hồi và phát triển ngành du lịch, hàng không

– Đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh

– Tập trung xử lý vướng mắc về lao động

– Đẩy mạnh thông tin truyền thông

* Trong tuần qua, Chính phủ đã ban hành 3 Nghị quyết, 6 Nghị định về các quy định, chính sách quan trọng phát triển kinh tế – xã hội.

Tạm dừng chính sách miễn thị thực đối với công dân Italy

Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc tạm dừng chính sách miễn thị thực đơn phương đối với công dân Italy nhằm ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh Covid-19. Nghị quyết nêu rõ, tạm dừng chính sách miễn thị thực đơn phương đối với công dân Italy, áp dụng từ 00 giờ 00 phút ngày 03/3/2020.

Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể phát triển bền vững kinh tế biển

Chính phủ ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Kế hoạch tổng thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra 6 nội dung, giải pháp về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ; về phát triển kinh tế biển, ven biển; về nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển; về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển; về môi trường, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Phấn đấu 2025 cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do

Chính phủ ban hành Nghị quyết 22/NQ-CP về ổn định dân di cư tự do và quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường. Nghị quyết đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do; hoàn thành công tác bố trí toàn bộ số hộ dân đã di cư tự do (khoảng 24.800 hộ) vào các điểm dân cư theo quy hoạch; hoàn thành việc nhập hộ khẩu, hộ tịch cho các hộ dân di cư tự do đủ điều kiện theo quy định; tập trung hoàn thiện, phát triển hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất bền vững tại vùng dự án bố trí ổn định dân di cư tự do. Phấn đấu đến năm 2030, đảm bảo ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất bền vững cho các hộ dân đã di cư tự do.

Sửa quy định giao phương tiện giao thông vi phạm cho người vi phạm bảo quản

Chính phủ ban hành Nghị định 31/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 3/10/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính. Trong đó, sửa đổi quy định giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản.

Cụ thể, phương tiện giao thông vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có một trong các điều kiện dưới đây thì người có thẩm quyền tạm giữ có thể giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phương tiện dưới sự quản lý của cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ, cụ thể: – Cá nhân vi phạm có nơi đăng ký thường trú hoặc có đăng ký tạm trú còn thời hạn hoặc có giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác; tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng. Tổ chức, cá nhân vi phạm phải có nơi giữ, bảo quản phương tiện; – Tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được xem xét để giao giữ, bảo quản phương tiện.

Huy động cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Chính phủ ban hành Nghị định 32/2020/NĐ-CP ngày 5/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Nghị định 32/2020/NĐ-CP bổ sung quy định về cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Theo đó, cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật được huy động để tham gia hoạt động thu thập, tổng hợp thông tin; điều tra, khảo sát; tham gia ý kiến về xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Vi phạm quy định về thực hiện hợp đồng lao động bị phạt đến 150 triệu đồng

Chính phủ ban hành Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Theo đó, phạt tiền từ 1-3 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi khi tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động nhưng không báo cho người lao động trước 03 ngày làm việc hoặc không thông báo rõ thời hạn làm tạm thời hoặc bố trí công việc không phù hợp với sức khỏe, giới tính của người lao động. Phạt tiền từ 50-75 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi cưỡng bức lao động, ngược đãi người lao động mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nghị định nêu rõ: Các mức phạt tiền nêu trên là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài hoạt động KHCN tại Việt Nam

Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2020/NĐ-CP trong đó sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 87/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ (KHCN) là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KHCN tại Việt Nam. Nghị định số 27/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 5, Điều 6 Nghị định số 87/2014/NĐ-CP về chính sách tuyển dụng, lao động, học tập và tiền lương.

Cụ thể, người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian làm việc tại Việt Nam được thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức KHCN công lập; được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN có sử dụng ngân sách nhà nước các cấp; được xét công nhận, bổ nhiệm chức danh khoa học, chức danh công nghệ theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ.

Người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài khi thực hiện nhiệm vụ KHCN tại Việt Nam được hưởng mức lương theo thỏa thuận. Mức lương thỏa thuận được xác định trên cơ sở: 1- Tính chất, quy mô và tầm ảnh hưởng của nhiệm vụ KHCN; 2- Trình độ, năng lực và hiệu quả đóng góp của cá nhân; 3- Mức lương của các vị trí tương đương trong các tổ chức nước ngoài hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Sửa đổi cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao

Chính phủ ban hành Nghị định 29/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 3 Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao. Theo đó, bãi bỏ khoản 28 Điều 3 Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao.

Như vậy, Trung tâm Hướng dẫn báo chí nước ngoài không còn trong cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao quy định tại Nghị định 26/2017/NĐ-CP. Công tác hướng dẫn báo chí nước ngoài sẽ do Cục Phục vụ Ngoại giao đoàn thực hiện.

Quy định giao, nhận tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước

Chính phủ ban hành Nghị định 26/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước. Nghị định này quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước; sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; giao, nhận tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ; địa điểm tổ chức, phương án bảo vệ và sử dụng phương tiện, thiết bị tại hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước; chế độ báo cáo về công tác bảo vệ bí mật nhà nước và phân công người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bí mật nhà nước.

Thủ tướng yêu cầu báo cáo, nêu rõ trách nhiệm việc tăng giá thịt lợn

Trước thông tin phản ánh trên báo chí về tình hình giá thịt lợn có xu hướng tăng cao, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu yêu cầu các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Công Thương và các cơ quan liên quan thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Trưởng Ban chỉ đạo điều hành giá tại Thông báo số 35/TB-VPCP ngày 2/2/2020 của Văn phòng Chính phủ về bảo đảm cân đối cung cầu và kiểm soát giá thịt lợn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện trước ngày 10/3/2020, một cách cụ thể, nêu rõ trách nhiệm của việc tăng giá này.

Xây dựng Hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại”. Mục tiêu chung của Đề án nhằm xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống cảnh báo sớm để theo dõi, cảnh báo và hỗ trợ cơ quan điều tra về phòng vệ thương mại và các cơ quan liên quan trong việc điều tra, xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại trong và ngoài nước, giải quyết tranh chấp tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đảm bảo mục tiêu bảo vệ sản xuất trong nước, chủ động phòng ngừa và ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, hướng tới xuất khẩu bền vững.

Nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc

Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, một trong các nội dung chủ yếu của nhiệm vụ lập quy hoạch là nghiên cứu quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc đến năm 2050, đưa ra lộ trình đầu tư phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, đảm bảo kết nối ngành, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và hạn chế ô nhiễm môi trường.

Theo Chính phủ

Ứng phó với Covid-19: “Trong nguy có cơ”

Trong bối cảnh dịch bệnh và năm cuối của kế hoạch 5 năm (2016-2020), Việt Nam phải thực hiện mục tiêu kép: vừa phòng chống dịch hiệu quả, vừa đảm bảo ổn định, phát triển kinh tế – xã hội.

Từ đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng sang nhiều vùng, khu vực trên thế giới, và hiện đang diễn biến rất phức tạp, khó lường. Theo số liệu thống kê đến thời điểm này, dịch bệnh đã lan ra toàn thế giới, ở khắp các châu lục và đã có trên 80 quốc gia/vùng lãnh thổ có công dân nhiễm bệnh Covid-19, với 93.000 ca bệnh, hơn 3.100 trường hợp tử vong (chủ yếu ở Trung Quốc  với 2.981 ca tử vong).

Bên cạnh thiệt hại về con người, dịch bệnh Covid-19 đã gây ra những thiệt hại về kinh tế đối với từng nước cụ thể, do các hoạt động giao thương, kết nối chuỗi sản xuất giữa các quốc bị đình trệ và xáo trộn; tác động đến cả tổng cung và tổng cầu.

Đại dịch Covid 19 lan rộng khiến thị trường tài chính thế giới chao đảo, các chỉ số chứng khoán và các chỉ số kinh tế vĩ mô đều sụt giảm: PMI của Trung quốc giảm mức thấp kỷ lục 35.7% trong tháng 2. Trong bối cảnh trên, dòng tiền tìm nơi trú ẩn an toàn khiến thị trường chứng khoán và giá dầu lao dốc còn chiều ngược lại giá vàng cũng như giá trái phiếu chính phủ liên tục tăng mạnh và lập các đỉnh mới.

Diễn biến các chỉ số chứng khoán kể từ đầu năm 2020

Trung tâm phân tích CTCP Chứng khoán Dầu khí (PSI) đã có cuộc trao đổi với TS. Cấn Văn Lực (Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV) về tác động của dịch cúm Covid 19 đối với kinh tế Việt Nam, và những định hướng chính sách của CP Việt nam trong bối cảnh mới

 Tác động của dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam

Đối với nền kinh tế Việt Nam, dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực cả tổng cầu và tổng cung. Về phía cầu, ngành du lịch, vận tải, bán lẻ (tiêu dùng cá nhân), xuất khẩu nông sản… đã bị tác động trực tiếp và rõ nét do lượng khách quốc tế và nội địa, nhu cầu giao lưu, tiêu dùng, vui chơi giải trí sụt giảm mạnh.

Về phía cung, hoạt động sản xuất trong nước gắn với chuỗi sản xuất, cung ứng từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… đã bị suy giảm do thiếu nguyên, nhiên vật liệu, lao động từ Trung Quốc và một số đối tác quan trọng.

Theo ngành kinh tế, dịch Covid-19 tác động tiêu cực, trực tiếp và rõ nét nhất tới 8 lĩnh vực chính của nền kinh tế Việt Nam, như: (i) chi phí y tế và nguồn nhân lực, (ii) du lịch, lữ hành, khách sạn, (iii) giao thông vận tải, (iv) thương mại, (v) đầu tư, (vi) bán lẻ (tiêu dùng cá nhân); (vii) các ngành sản xuất theo chuỗi cung ứng; và (vi) tài chính – ngân hàng.

Trong báo cáo công bố ngày 11/2/2020, Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã đưa ra 3 kịch bản, đánh giá tác động của dịch bệnh Covid-19 đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020.

Theo đó, với kịch bản cơ sở: Dịch Covid-19 sớm được kiểm soát, các hoạt động kinh tế – xã hội sớm trở lại bình thường từ giữa quý 2/2020. Tại kịch bản này, doanh thu du lịch của Việt Nam năm 2020 giảm khoảng 20-22% so với năm 2019; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm 8-12%; du lịch khách quốc tế giảm 15-20%; dịch vụ giao thông vận tải giảm 15-20%; bán lẻ (tiêu dùng cá nhân) giảm 0,5%; và dịch vụ tài chính – ngân hàng giảm 2%.

Hoạt động sản xuất trong nước gắn với chuỗi sản xuất, cung ứng từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… đã bị suy giảm do thiếu nguyên, nhiên vật liệu

Theo đó, tăng trưởng GDP Việt Nam cả năm 2020 giảm khoảng 0,83 điểm %; trong đó, GDP quý 1 giảm 1,23 điểm % (tương ứng mức tăng trưởng 5,6-5,7%) và GDP quý 2 giảm 0,71 điểm % (tương ứng mức tăng trưởng 6-6,1%). Mức tác động này cũng khá tương đồng với dự báo gần đây của một số các tổ chức quốc tế (ANZ, Citibank…v.v.) với mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dự báo khoảng 6-6,3%.

Với kịch bản tích cực: Dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trong quý 1/2020; các hoạt động kinh tế – xã hội sớm trở lại bình thường từ đầu quý 2/2020. Với kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 sẽ giảm khoảng 0,32 điểm %; trong đó, quý 1 giảm 1,22 điểm % và quý 2 giảm 0,39 điểm %.

Với kịch bản tiêu cực, dịch bệnh bùng phát, lây lan mạnh thành đại dịch các nước cũng như tại Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh ít hiệu quả, dẫn đến hệ lụy xấu, thậm chí làm kiệt quệ các hoạt động sản xuất – kinh doanh của Việt Nam; khiến tăng trưởng GDP Việt Nam năm nay giảm khoảng 2,71 điểm %.

Tại Việt Nam, trong bối cảnh dịch bệnh và năm cuối của kế hoạch 5 năm (2016-2020), Việt Nam phải thực hiện mục tiêu kép: vừa phòng chống dịch hiệu quả, vừa đảm bảo ổn định, phát triển kinh tế – xã hội. Để làm được điều này, một số chính sách, giải pháp quan trọng đươc theo TS. Cấn Văn Lực, cần được thực hiện như:

Thứ nhất: Dù mục tiêu đạt tiêu tăng trưởng kinh tế 6,8% và kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay là nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng Chính phủ chưa nên đặt vấn đề điều chỉnh kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm nay, do chưa có đủ cơ sở cũng như chưa lường đón được hết diễn biến dịch bệnh.

Thứ 2: Nhiệm vụ ưu tiên số 1, quan trọng hàng đầu hiện nay phải là phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả; bởi vì làm tốt điều này cũng chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Phương châm của Chính phủ là cần bình tĩnh, đúng mức, nhưng không chủ quan, thông tin công khai, minh bạch, chuẩn xác và kịp thời cần được nhất quán hiểu và hành động quyết liệt.

Thứ 3: Các gói chính sách kinh tế cần hướng đến hỗ trợ ổn định, khắc phục khó khăn, vượt qua cú sốc về cả phía cung và cầu, cũng như chuẩn bị tốt nhất để tạo đà phục hồi mạnh ngay sau khi dịch bệnh kết thúc. Về lý thuyết kinh tế, trong những trường hợp này, chính sách tài khóa nên được ưu tiên hơn là chính sách tiền tệ, do hiệu quả tức thì, ít độ trễ hơn của chính sách tài khóa. Tuy nhiên, vẫn phải kết hợp hài hòa cả hai nhóm chính sách này thì hiệu quả hỗ trợ mới tốt hơn.

“Hành động” của các NHTW trên thế giới

Ảnh hưởng khó lường của dịch bệnh tới nền kinh tế dấy lên vấn đề về việc nới lỏng chính sách tiền tệ ở nhiều nước.

Trung Quốc, nơi bùng phát đầu tiên dịch COVID-19, đã bơm một lượng tiền mặt lớn vào thị trường. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC – ngân hàng trung ương) cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách gia hạn các khoản vay và không phạt nếu quá hạn.

Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam nên duy trì ở mức vừa phải

Ngân hàng Dự trữ Australia (RBA – Ngân hàng Trung ương), ngày 3/3 đã quyết định cắt giảm lãi suất cơ bản xuống mức thấp kỷ lục mới 0,5%, trong bối cảnh dịch COVID-19 đang ngày càng đe dọa trực tiếp đến nền kinh tế thế giới và Australia.

Trong đêm qua theo giờ Việt Nam, Fed vừa hạ lãi suất khẩn cấp 50bps dù chưa tới phiên họp – điều chưa từng xảy ra từ khủng hoảng tài chính 2008 nhằm đối phó các rủi ro vì Covid 19.

Bên cạnh đó, có thể Canada sẽ có động thái tương tự trong tuần này. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) có 50% khả năng sẽ quyết định hạ lãi suất vào tuần tới.

Đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam, theo TS. Cấn Văn Lực, có 4 điểm cần cân nhắc để đưa ra các chính sách phù hợp:

Thứ nhất: Chưa nên giảm lãi suất điều hành của NHNN do:

(i) Áp lực lạm phát năm nay ở mức khá cao (chỉ số CPI tháng 1/2020 tăng 6,43% và lạm phát cơ bản tăng 3,25% so với cùng kỳ năm 2019), chỉ số CPI cả quý 1/2020 có thể ở mức trên 5% so với cùng kỳ, và cả năm dưới 4% là rất khó khăn;

(ii) Khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế hiện nay và cả quý 2/2020 còn yếu, tính đến hết ngày 19/2/2020, tín dụng toàn hệ thống giảm 0,28% so cuối năm 2019 (theo NHNN);

(iii) Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam nên duy trì ở mức vừa phải (mức tăng trưởng 13-14%/năm đang là cao nhất trong khu vực Đông Á và ĐNÁ trong khi quy mô tín dụng của Việt Nam lớn (khoảng 136% GDP cuối năm 2019); nên nếu giảm lãi suất là chưa trúng và có thể sẽ đẩy tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Thứ 2: Việc tung ra gói hỗ trợ lãi suất (như năm 2009) là chưa cần thiết lúc này vì hiệu quả không cao và rất phức tạp khi triển khai.

Thứ 3: Ngoài ra, khó khăn lớn nhất hiện nay đối với hộ kinh doanh và doanh nghiệp là dòng tiền và tính thanh khoản, vì vậy cần tập trung hỗ trợ điểm huyệt này. NHNN đã có yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) xem xét cho phép bên vay giãn, hoãn nợ, giảm lãi/phí, không chuyển nhóm nợ, cho vay mới phục vụ SX-KD v.v… Các TCTD đã tung ra hàng loạt các gói tín dụng với lãi suất giảm từ 0,5-1%/năm, giảm một số loại phí, rà soát, xem xét từng khách hàng, khoản vay để có biện pháp hỗ trợ tương ứng.

Cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất hơn môi trường kinh doanh

NHNN cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, quy định tiêu chí để xác định đối tượng được hỗ trợ và tiếp tục hỗ trợ gián tiếp như cho vay tái cấp vốn, cho vay trên thị trường mở để các TCTD có thể tiếp cận một phần nguồn vốn chi phí thấp hơn. Thực hiện tốt những điều trên là thuốc vaccine phù hợp nhất đối với doanh nghiệp, hộ gia đình chịu tác động dịch Covid-19 hiện nay.

Thứ tư: Dùng nhiều công cụ, biện pháp để kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối và thị trường vàng cũng là những động lực quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, giúp người dân và doanh nghiệp yên tâm làm ăn hơn.

Đối với chính sách điều hành kinh tế trong điều kiện chống cú sốc ngắn hạn hiện nay, cần ưu tiên hơn sử dụng hơn chính sách tài khóa. Theo TS Cấn Văn Lực, Chính phủ có thể xem xét cho phép sử dụng công cụ thuế và đầu tư công nhằm hỗ trợ tổng cầu.

(i) Giãn, hoãn các nghĩa vụ tài chính (thuế, bảo hiểm xã hội…) như tiếp tục giảm thuế nhập khẩu thiết bị y tế, dịch vụ y tế; giãn, hoãn nộp thuế, chi trả bảo hiểm xã hội cho người lao động của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh chịu tác động mạnh bởi dịch bệnh v.v…

(ii) Chính phủ sớm trình Quốc hội chính thức cho phép giảm thuế thu nhập DNNVV xuống mức 15-17% (Luật hỗ trợ DNNVV năm 2017 cho phép điều này, nhưng cần được Quốc hội thông qua).

(iii) Đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, đặc biệt là dự án lớn, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đã được phê duyệt theo kế hoạch. Các Thành phố lớn như TP. HCM và Hà Nội cần đẩy nhanh tiến độ rà soát, thanh-kiểm tra các dự án BĐS để sớm quyết định cho phép triển khai hay không.

Đối với một số chính sách kinh tế khác, cần tiếp tục thực hiện một số chính sách, giải pháp căn cơ, dài hạn như:

(i) Từng bộ, ngành, địa phương cần đánh giá tác động dịch Covid-19 đối với lĩnh vực, địa phương mình để có hình thức hỗ trợ phù hợp nhất;

(ii) Tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất hơn môi trường kinh doanh, giảm mạnh chi phí không chính thức, tạo điều kiện thu hút đầu tư (tư nhân và FDI phát triển tốt hơn);

(iii) Phát huy động lực từ các lĩnh vực, khu vực không bị ảnh hưởng;

(iv) tận dụng các cơ hội kinh doanh mới từ các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mới, nhiều cơ hội phát triển như kinh tế số, thương mại điện tử, thanh toán điện tử, dịch vụ trực tuyến…..v.v.;

(v) Tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại thế hệ mới (FTA), nhất là EVFTA (dự kiến hiệu lực từ tháng 7/2020);

(vi) Hỗ trợ doanh nghiệp về tiếp cận thông tin, kết nối thị trường, đối tác thay thế các nguồn nguyên liệu đầu vào, sản phẩm đầu ra nhằm nhanh chóng ổn định chuỗi sản xuất, cung ứng và tiêu thụ;

(viii) Đã đến lúc cần nghiêm túc đặt vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế, ngành nghề; đa dạng hóa thị trường, đối tác, phát triển mạnh công nghiệp phụ trợ, khai thác hiệu quả thị trường trong nước…. là một trong những trụ cột tiếp tục ưu tiên lâu dài, vừa phát huy hiệu quả nguồn lực, vừa hạn chế rủi ro phụ thuộc quá nhiều vào một số đối tác, thị trường lớn như hiện nay.

“Cơ hội“ gọi tên ai

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ đã quyết định đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các điểm đến có khả năng lây lan NCovi ra cộng đồng.

Ngành được xem là điểm sáng trong bối cảnh “trong nguy có cơ” là ngành điện. Khi thị trường có rủi ro biến động mạnh, dòng tiền có xu hướng dịch chuyển sang các tài sản đầu tư an toàn như vàng hoặc các công cụ tài chính mang lại lợi tức cố định như trái phiếu.

Nhóm ngành điện luôn là nhóm ngành thu hút được dòng tiền trên thị trường chứng khoán mỗi khi có rủi ro biến động mạnh

Tương tự như các tài sản an toàn trên, cổ phiếu của các doanh nghiệp ngành điện cũng có vị thế phòng thủ nhờ các yếu tố như: (1) Ngành nghề thiết yếu nên hoạt động kinh doanh luôn duy trì ổn định bất chấp ảnh hưởng từ các hiện tượng ” Thiên Nga đen “ (2) Lịch sử trả cổ tức bằng tiền mặt ổn định hàng năm, (3) Rào cản gia nhập ngành lớn.

Với những vị thế phòng thủ như trên, nhóm ngành điện luôn là nhóm ngành thu hút được dòng tiền trên thị trường chứng khoán mỗi khi có rủi ro biến động mạnh. Trong dịch Sar 2003, các cổ phiếu ngành điện là những cổ phiếu duy trì được đà tăng tốt nhất trên sàn chứng khoán S&P.

Bên cạnh vị thế phòng thủ, triển vọng của các doanh nghiệp điện tại Việt Nam rất khả quan trong thời gian tới nhờ nhu cầu tiêu thụ điện đang tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, theo ước tính của Bộ Công Thương nhu cầu tiêu thụ điện của Việt Nam sẽ vượt nguồn cung 6,6 tỷ kWh vào năm 2021 và sẽ thiếu hụt khoảng 5% tổng nhu cầu dự báo tại thời điểm.

Trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại, PV Power là doanh nghiệp có quy mô vốn hóa lớn nhất của ngành điện. PV Power hiện là doanh nghiệp phát điện lớn thứ 2 trong ngành với quy mô sở hữu 7 nhà máy điện với tổng công suất 4,2GW chiếm 11 công suất toàn hệ thống. Với nhu cầu tiêu thụ ngày càng gia tăng, tiềm năng phát triển các dự án điện đặc biệt là các dự án điện khí đang được chú trọng trong đó có dự án Nhơn Trạch 3,4 sẽ là cơ sở tạo động lực tăng trưởng cho PV Power.

Với việc kiểm soát dịch tốt, đồng thời với một số yếu tố tích cực với TTCK năm 2020 như; TTCK Việt Nam sẽ được nâng tỷ trọng trong rổ MSCI Frontier 100 lên 30% khi Kuwait được chuyển sang rổ MSCI Emerging Market; diễn biến thương mại Mỹ – Trung Quốc đã có những khởi sắc; kỳ vọng các ETFs mới dành cho cổ phiếu tài chính và cổ phiếu đã hết room ngoại sẽ được ký duyệt trong năm nay, Trung tâm Phân tích PSI đánh giá thị trường CK vẫn có nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư trong năm 2020.

Theo Công thương

Mỗi ngày ngân sách thất thu 150 tỉ đồng tiền thuế do dịch COVID-19

Theo Tổng cục Hải quan, do ảnh hưởng dịch COVID-19, số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh. Bình quân mỗi ngày trong 2 tháng đầu năm chỉ thu được 1.308 tỉ đồng, giảm 150 tỉ đồng so với cùng kỳ năm 2019.

Ngày 28-2, Tổng cục Hải quan cho biết ước thu tháng 2 từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 23.700 tỉ đồng, thấp hơn so với tháng 1 hơn 2.300 tỉ đồng.

Nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch COVID-19, hầu hết kim ngạch xuất nhập khẩu của các mặt hàng đóng góp số thu lớn như xăng dầu, điện thoại và linh kiện, máy móc phụ tùng, sắt thép… đều giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm 2019.

Ước tính tổng thu ngân sách nhà nước 2 tháng đầu năm nay từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 49.700 tỉ đồng, giảm gần 8% so với cùng kỳ năm 2019.

“Nếu 2 tháng đầu năm 2019 bình quân mỗi ngày thu 1.458 tỉ đồng/ngày, thì 2 tháng đầu năm chỉ thu khoảng 1.308 tỉ đồng/ngày” – Tổng cục Hải quan cho hay.

Thực tế, theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 2-2020, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu giảm mạnh cả giá trị và số lượng nhập khẩu.

Đơn cử xăng dầu các loại nhập khẩu ước tính là 650 nghìn tấn, ước tính giảm 20% về lượng và giảm 22,8% về trị giá so với tháng 2-2019.

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng có giá trị nhập khẩu đạt 2,5 tỉ USD, giảm 3,7% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Sắt thép các loại nhập 900.000 tấn với giá trị 540 triệu USD, giảm 8,5% về lượng và giảm 18,5% về trị giá so với tháng 2-2019.

Ô tô nguyên chiếc các loại giảm kỷ lục nhất so với cùng kỳ năm ngoái. Tháng 2 này chỉ nhập có 6.000 chiếc, giảm 60% về lượng và hơn 57% về trị giá.

 Theo Tuổi trẻ