Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật tuần từ 2-6/3/2020

Trong tuần qua, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, ngày càng lan rộng, có nguy cơ bùng phát tại nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới và tác động, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu và nhiều nước, đối tác lớn của Việt Nam. Ở trong nước, dịch Covid-19 đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Trước tình hình trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19.

Để tập trung phòng chống, giảm thiểu tác động của dịch Covid-19, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, an toàn đời sống và sức khỏe của nhân dân, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và đề nghị cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước tập trung thực hiện “nhiệm vụ kép” là vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế – xã hội. Tuyệt đối không được chủ quan, lơ là, thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 trong bối cảnh dịch bệnh nguy hiểm này đang bùng phát, lan rộng ở nhiều quốc gia như hiện nay; có các phương án, giải pháp phù hợp nhằm ứng phó với mọi tình huống, không để bị động bất ngờ. Đồng thời, thực hiện ngay các biện pháp hỗ trợ cho các đối tượng, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 đã đề ra theo Kết luận của Trung ương và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương tập trung thực hiện 7 nhiệm vụ, giải pháp:

– Tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi về tiếp cận vốn, tín dụng, tài chính, thuế, thương mại, thanh toán điện tử

– Rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, chi phí cho doanh nghiệp

– Tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất, nhập khẩu

– Khẩn trương phục hồi và phát triển ngành du lịch, hàng không

– Đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh

– Tập trung xử lý vướng mắc về lao động

– Đẩy mạnh thông tin truyền thông

* Trong tuần qua, Chính phủ đã ban hành 3 Nghị quyết, 6 Nghị định về các quy định, chính sách quan trọng phát triển kinh tế – xã hội.

Tạm dừng chính sách miễn thị thực đối với công dân Italy

Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc tạm dừng chính sách miễn thị thực đơn phương đối với công dân Italy nhằm ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh Covid-19. Nghị quyết nêu rõ, tạm dừng chính sách miễn thị thực đơn phương đối với công dân Italy, áp dụng từ 00 giờ 00 phút ngày 03/3/2020.

Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể phát triển bền vững kinh tế biển

Chính phủ ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Kế hoạch tổng thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra 6 nội dung, giải pháp về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ; về phát triển kinh tế biển, ven biển; về nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển; về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển; về môi trường, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Phấn đấu 2025 cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do

Chính phủ ban hành Nghị quyết 22/NQ-CP về ổn định dân di cư tự do và quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường. Nghị quyết đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do; hoàn thành công tác bố trí toàn bộ số hộ dân đã di cư tự do (khoảng 24.800 hộ) vào các điểm dân cư theo quy hoạch; hoàn thành việc nhập hộ khẩu, hộ tịch cho các hộ dân di cư tự do đủ điều kiện theo quy định; tập trung hoàn thiện, phát triển hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất bền vững tại vùng dự án bố trí ổn định dân di cư tự do. Phấn đấu đến năm 2030, đảm bảo ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất bền vững cho các hộ dân đã di cư tự do.

Sửa quy định giao phương tiện giao thông vi phạm cho người vi phạm bảo quản

Chính phủ ban hành Nghị định 31/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 3/10/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính. Trong đó, sửa đổi quy định giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản.

Cụ thể, phương tiện giao thông vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có một trong các điều kiện dưới đây thì người có thẩm quyền tạm giữ có thể giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phương tiện dưới sự quản lý của cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ, cụ thể: – Cá nhân vi phạm có nơi đăng ký thường trú hoặc có đăng ký tạm trú còn thời hạn hoặc có giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác; tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng. Tổ chức, cá nhân vi phạm phải có nơi giữ, bảo quản phương tiện; – Tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được xem xét để giao giữ, bảo quản phương tiện.

Huy động cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Chính phủ ban hành Nghị định 32/2020/NĐ-CP ngày 5/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Nghị định 32/2020/NĐ-CP bổ sung quy định về cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Theo đó, cộng tác viên theo dõi tình hình thi hành pháp luật được huy động để tham gia hoạt động thu thập, tổng hợp thông tin; điều tra, khảo sát; tham gia ý kiến về xử lý kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Vi phạm quy định về thực hiện hợp đồng lao động bị phạt đến 150 triệu đồng

Chính phủ ban hành Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Theo đó, phạt tiền từ 1-3 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi khi tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động nhưng không báo cho người lao động trước 03 ngày làm việc hoặc không thông báo rõ thời hạn làm tạm thời hoặc bố trí công việc không phù hợp với sức khỏe, giới tính của người lao động. Phạt tiền từ 50-75 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi cưỡng bức lao động, ngược đãi người lao động mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nghị định nêu rõ: Các mức phạt tiền nêu trên là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài hoạt động KHCN tại Việt Nam

Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2020/NĐ-CP trong đó sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 87/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ (KHCN) là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KHCN tại Việt Nam. Nghị định số 27/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 5, Điều 6 Nghị định số 87/2014/NĐ-CP về chính sách tuyển dụng, lao động, học tập và tiền lương.

Cụ thể, người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian làm việc tại Việt Nam được thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức KHCN công lập; được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN có sử dụng ngân sách nhà nước các cấp; được xét công nhận, bổ nhiệm chức danh khoa học, chức danh công nghệ theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ.

Người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài khi thực hiện nhiệm vụ KHCN tại Việt Nam được hưởng mức lương theo thỏa thuận. Mức lương thỏa thuận được xác định trên cơ sở: 1- Tính chất, quy mô và tầm ảnh hưởng của nhiệm vụ KHCN; 2- Trình độ, năng lực và hiệu quả đóng góp của cá nhân; 3- Mức lương của các vị trí tương đương trong các tổ chức nước ngoài hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Sửa đổi cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao

Chính phủ ban hành Nghị định 29/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 3 Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao. Theo đó, bãi bỏ khoản 28 Điều 3 Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao.

Như vậy, Trung tâm Hướng dẫn báo chí nước ngoài không còn trong cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao quy định tại Nghị định 26/2017/NĐ-CP. Công tác hướng dẫn báo chí nước ngoài sẽ do Cục Phục vụ Ngoại giao đoàn thực hiện.

Quy định giao, nhận tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước

Chính phủ ban hành Nghị định 26/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước. Nghị định này quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước; sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; giao, nhận tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ; địa điểm tổ chức, phương án bảo vệ và sử dụng phương tiện, thiết bị tại hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước; chế độ báo cáo về công tác bảo vệ bí mật nhà nước và phân công người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bí mật nhà nước.

Thủ tướng yêu cầu báo cáo, nêu rõ trách nhiệm việc tăng giá thịt lợn

Trước thông tin phản ánh trên báo chí về tình hình giá thịt lợn có xu hướng tăng cao, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu yêu cầu các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Công Thương và các cơ quan liên quan thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Trưởng Ban chỉ đạo điều hành giá tại Thông báo số 35/TB-VPCP ngày 2/2/2020 của Văn phòng Chính phủ về bảo đảm cân đối cung cầu và kiểm soát giá thịt lợn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện trước ngày 10/3/2020, một cách cụ thể, nêu rõ trách nhiệm của việc tăng giá này.

Xây dựng Hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại”. Mục tiêu chung của Đề án nhằm xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống cảnh báo sớm để theo dõi, cảnh báo và hỗ trợ cơ quan điều tra về phòng vệ thương mại và các cơ quan liên quan trong việc điều tra, xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại trong và ngoài nước, giải quyết tranh chấp tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đảm bảo mục tiêu bảo vệ sản xuất trong nước, chủ động phòng ngừa và ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, hướng tới xuất khẩu bền vững.

Nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc

Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, một trong các nội dung chủ yếu của nhiệm vụ lập quy hoạch là nghiên cứu quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc đến năm 2050, đưa ra lộ trình đầu tư phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, đảm bảo kết nối ngành, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và hạn chế ô nhiễm môi trường.

Theo Chính phủ

Thủ tướng sẽ lập Tổ công tác đặc biệt cắt giảm và ngăn chặn rào cản

Thủ tướng sẽ thành lập Tổ công tác đặc biệt về thúc đẩy cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, với mục tiêu dự kiến cắt giảm 20% các văn bản đã ban hành thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, ít nhất 20% chi phí hành chính tuân thủ quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh mỗi năm.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết điều này tại cuộc họp ngày 2/1 về việc xây dựng công cụ và kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.

Theo dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch, nòng cốt của Tổ công tác này là VPCP, Bộ Tư pháp và lãnh đạo cấp vụ, cục của các bộ liên quan.

Cắt giảm và ngăn chặn

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, buổi làm việc đầu tiên trong năm mới bàn về nội dung này cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Thủ tướng Chính phủ. Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách nhưng các nước cũng cải cách rất mạnh. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2019 tăng tới 10 bậc, nhưng môi trường kinh doanh lại tụt 1 hạng dù vẫn tăng điểm.

Quan điểm chỉ đạo của kế hoạch là cắt giảm ngay những quy định là rào cản với hoạt động sản xuất, kinh doanh và ngăn chặn việc phát sinh các quy định mới làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Với các quy định nằm trong luật, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội sửa đổi.

Tinh thần chung của kế hoạch này là sẽ tiếp tục quyết liệt trong cải cách thủ tục hành chính, trong đó có việc sửa đổi 25 điểm chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật mà Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI) chỉ ra mới đây. Đặc biệt, phải kiểm soát việc ban hành các thông tư, nhiều rào cản rất lớn đang nằm trong các văn bản này. Cùng với đó, cải cách mạnh mẽ các quy định về kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu.

Một điểm nổi bật của dự thảo kế hoạch là nguyên tắc khi ban hành một văn bản mới phải bãi bỏ ít nhất một văn bản cũ, riêng thông tư thì ban hành một phải bãi bỏ ít nhất hai. Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết thêm, sẽ tham khảo kinh nghiệm của Vương quốc Anh về nội dung này.

Cùng với đó, kế hoạch sẽ nghiên cứu bộ công cụ tính toán chi phí tuân thủ của người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các quy định; xếp hạng, đánh giá sự tích cực của bộ ngành, địa phương. “Báo chí và doanh nghiệp phản ánh rằng có những bộ công bố cắt giảm điều kiện và thủ tục nhưng thực chất không được như thế”, Bộ trưởng nói.

Không để cắt cái này, mọc cái khác

Cung cấp thêm thông tin về dự thảo kế hoạch, ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, VPCP nhắc lại tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng là “cái gì làm được thì làm ngay đừng để hôm sau”. Ông cũng cho rằng, hiện nay là thời điểm chín muồi để đẩy mạnh cải cách, đặc biệt là về công cụ. Hiện VPCP đang phối hợp với VNPT đểxây dựng phần mềm thống kê tất cả các văn bản có liên quan tới hoạt động kinh doanh, kể từ cấp công văn hướng dẫn cho tới luật, nghị quyết của Quốc hội. Việc này cũng phù hợp với khuyến nghị của OECD.

Cùng với đó, quá trình rà soát cũng sẽ xem xét cả các dự thảo văn bản, do đó các đơn vị của các bộ cũng cần phải vào cuộc tích cực, chặt chẽ, tránh tính trạng “cắt cái này mọc cái khác như đầu Phạm Nhan”.

Cũng theo ông Ngô Hải Phan, một hướng khác là khi hướng dẫn các luật, nếu thuộc phạm vi quản lý của một bộ thì chỉ ban hành một nghị định hướng dẫn, tránh tình trạng một luật ban hành hàng chục nghị định, “rất mất thời gian và nguồn lực của Chính phủ”. Cũng tương tự như vậy với các thông tư.

Trước mắt trong năm 2020, mục tiêu là xử lý ngay những vấn đề mà VCCI cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã đề xuất. Đồng thời, thống kê đầy đủ toàn bộ các văn bản liên quan tới hoạt động kinh doanh.

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cũng cho rằng, cần hạn chế việc ban hành các thông tư, tiến tới làm sao ban hành nghị định mà không cần thông tư hướng dẫn. Ông nhắc tới việc mới đây, một Cục của một Bộ ban hành một công văn mà “cả nước phải theo”. “Cần xác định rõ thẩm quyền, thông tư của Bộ đang quy định thế này nhưng Cục ra văn bản yêu cầu không thực hiện như thế nữa. Việc thực hiện kế hoạch sẽ chỉ rõ những việc tương tự, tránh việc tự tiện ban hành như vậy”.

Cách tiếp cận mới, khó và triệt để

Ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng CIEM cho biết “vô cùng hoan nghênh và đánh giá rất cao” sáng kiến triển khai kế hoạch này. “Điều này vượt qua tất cả các giải pháp cải cách mà chúng ta đang làm và chúng tôi rất kỳ vọng, vì kế hoạch này không dừng lại ở việc cắt giảm thủ tục, điều kiện mà bãi bỏ hẳn quy định, văn bản. Tôi biết, Vương quốc Anh có khái niệm về quy định thông minh, với hàm ý rằng với một xã hội ngày càng thông minh, thì nhà nước nên ban hành ít quy định thôi, nhưng quy định phải thông minh”, ông Hiếu phát biểu.

Đồng ý với các nguyên tắc mà dự thảo kế hoạch nêu ra, ông Phan Đức Hiếu góp ý thêm, nên hướng tới việc chỉ ban hành một nghị định, một thông tư cho mỗi lĩnh vực, mỗi vấn đề hoặc nhóm lĩnh vực, nhóm vấn đề, nếu không sẽ tiếp tục chồng chéo. Cùng với đó, các quy định về kinh doanh rất rộng, Tổ công tác cần xác định trọng tâm cải cách để tránh tình trạng các bộ sẽ “ưu tiên” đề xuất cắt giảm các nội dung dễ làm nhưng ít có ý nghĩa.

Đánh giá cao cách tiếp cận của dự thảo kế hoạch là tiếp cận tổng thể, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI cho rằng, từ đầu nhiệm kỳ tới nay, có 3 điểm nhấn trong cải cách. Đầu tiên là việc bãi bỏ hàng nghìn điều kiện kinh doanh ở cấp thông tư năm 2016, tiếp đó là việc cắt giảm 50% điều kiện kinh doanh năm 2018.

“Và lần này còn trọng tâm hơn, tổng thể hơn, nhưng tôi đề xuất cần ưu tiên xử lý các quy định chồng chéo và bảo đảm minh bạch”, ông Lộc phát biểu. Cùng với đó, cần căn cứ vào các kinh nghiệm tốt của quốc tế, vào cách làm của nhóm 4 nước đứng đầu ASEAN về môi trường kinh doanh.

Đồng tình với dự thảo kế hoạch, song nhiều ý kiến phát biểu từ các bộ tham gia cuộc họp cũng bày tỏ e ngại một số vấn đề, nhất là về tính khả thi và tác động của nội dung “ban hành một thông tư mới phải bãi bỏ ít nhất hai thông tư cũ”.

Tuy nhiên, ý kiến các chuyên gia không đồng tình với e ngại này. Theo ông Phan Đức Hiếu, quan trọng là việc thay đổi phương thức quản lý, tư duy quản lý, bãi bỏ các quy định không còn phù hợp. Ông khẳng định nguyên tắc một đổi một là phù hợp và đã được thực tế kiểm chứng.

Còn ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế của VCCI cũng đồng tình với mục tiêu và nguyên tắc bãi bỏ văn bản mà dự thảo kế hoạch đề ra. “Vấn đề không chỉ nằm ở điều kiện kinh doanh hay thủ tục hành chính. Thực tế chúng tôi thấy ngay cả biểu mẫu cũng chứa đựng điều kiện kinh doanh. Do đó, cần phải thay đổi tư duy và công cụ quản lý”, ông Tuấn nói. Cũng theo ông Tuấn, thực tế cho thấy đang có xu hướng các bộ tách ra để ban hành nhiều văn bản thay vì gom lại, “làm cho quy trình trở nên tốn kém và hệ thống pháp luật trở nên phức tạp”.

Giải thích thêm về nội dung này, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết đây là cải cách mang tính triệt để, mang tính quyết định lâu dài. Thực tế là các thông tư không được lấy ý kiến kỹ lưỡng như ở cấp nghị định hay luật, nên “loằng ngoằng nhiều ở thông tư”. Nếu không áp dụng nguyên tắc “một đổi một, một đổi hai” thì người dân và doanh nghiệp phải tiếp cận rất nhiều văn bản mới nắm được hết các quy định, tất nhiên, việc này sẽ không áp dụng cứng nhắc. Bộ trưởng đề nghị đồng thuận với cách tiếp cân này để thực thi quyết liệt theo tinh thần Chính phủ kiến tạo.

“Khi ban hành Nghị định thay thế Nghị định 38, Bộ Y tế cắt giảm tới trên 90% các mặt hàng kiểm tra an toàn thực phẩm, nhưng số người bị đau bụng đâu có tăng lên. Như vậy là cắt giảm thủ tục mà vẫn bảo đảm quản lý Nhà nước”, Bộ trưởng nhắc tới một ví dụ cải cách thành công.

“Đây là vấn đề rất quan trọng, Thủ tướng rất mong đợi. Cách tiếp cận mới và khó, nhưng khó mới triệt để được và tinh thần đưa ra là phải làm được”, Bộ trưởng nhấn mạnh và cho biết sau cuộc họp, VPCP sẽ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng, lấy ý kiến các bộ, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết và trình Thủ tướng ban hành kế hoạch thực hiện trong tháng 2.

Theo Báo mới

10 sự kiện nổi bật ngành Công Thương năm 2019

Năm 2019 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của đất nước ta trong việc tiến tới hoàn thành các mục tiêu Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020. Dưới sự chỉ đạo thống nhất, sát sao, hiệu quả trong công tác điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ với phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, Bộ Công Thương đã cụ thể hóa thành các kế hoạch hành động cụ thể và tập trung triển khai với tinh thần trách nhiệm cao nhất, qua đó đến nay đã đạt được các kết quả toàn diện trên các lĩnh vực hoạt động của Ngành, tất cả các chỉ tiêu kế hoạch đều thực hiện đạt và vượt mức Quốc hội và Chính phủ giao.

Trong đó, một số sự kiện nổi bật tạo nên dấu ấn thành công trong năm 2019 của Ngành như sau:

1. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 500 tỷ USD

Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu giảm thấp do tác động của xung đột thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc; xu hướng bảo hộ mậu dịch và việc các nước đang ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế thương mại, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng xuất nhập khẩu ở mức cao, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 vượt mốc 500 tỷ USD.

Đây là kết quả phản ánh sự nỗ lực của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương, trong đó có Bộ Công Thương trong việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh tạo động lực cho doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất và xuất khẩu cũng như như thu hút mở rộng đầu tư cho phát triển xuất khẩu; củng cố và tiếp tục khai thác có hiệu quả các thị trường xuất khẩu truyền thống; mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới từ việc tận dụng các Hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực; đặc biệt cho thấy sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp đã tận dụng tốt hơn cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do để đẩy mạnh xuất khẩu.

2. Việt Nam thực hiện mở cửa hội nhập một cách mạnh mẽ hơn với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương chính thức có hiệu lực và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu chính thức được ký kết.

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đi vào thực thi và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu chính thức được ký kết là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới.

Ngay từ năm đầu tiên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các thành viên đã thực thi Hiệp định này có tốc độ tăng trưởng cao trên hai con số, tập trung vào các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như điện thoại các loại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; hàng thủy sản; và hàng dệt, may…

Việc chính thức ký kết Hiệp định Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, làm sâu sắc hơn mối quan hệ về kinh tế và thương mại nhằm tận dụng tối đa lợi thế và tiềm năng của nhau để mang lại lợi ích cho cả hai bên, giúp Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Đồng thời, tạo cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn trong giai đoạn tới.

3. Công tác quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận thương mại, xuất xứ được củng cố, góp phần quan trọng ổn định thị trường

Năm 2019, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của thương mại toàn cầu, đặc biệt là dưới áp lực của xung đột thương mại Mỹ – Trung, các hành vi gian lận xuất xứ, gian lận thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại có xu hướng gia tăng với các hình thức ngày càng tinh vi, phức tạp. Để tăng cường công tác quản lý đối với các vấn đề này, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án 824 theo Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2019 phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ và Quyết định 2094A/QĐ-BCT ngày 15 tháng 7 năm 2019 về Kế hoạch hành động của Bộ Công Thương để triển khai Đề án 824.

Theo đó, Bộ Công Thương đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai quyết liệt công tác chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, xuất xứ, ngăn chặn hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất và người tiêu dùng trong nước.

4. Bộ Công Thương là Bộ đầu tiên thực hiện kết nối với Cổng dịch vụ công Quốc gia

Cổng Dịch vụ công Quốc gia tổ chức trên phạm vi toàn quốc được chính thức khai trương vào ngày 09 tháng 12 năm 2019 với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử.

Với quan điểm công khai, minh bạch, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, những dịch vụ nào người dân doanh nghiệp cần thì triển khai trước, Bộ Công Thương là đơn vị đầu tiên thí điểm kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia. Theo đó, Bộ đã chủ động lựa chọn những dịch vụ công thuộc thẩm quyền của Bộ có số lượng hồ sơ lớn, có tác động trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp đưa lên Cổng dịch vụ công quốc gia, gồm: (1) Cấp giấy chứng nhận xuất xứ ưu đãi và (2) Đăng ký hoạt động khuyến mại. Đây là các nhóm thủ tục có số lượng hồ sơ trực tuyến lớn nhất thực hiện tại của Bộ Công Thương.

Việc kết nối thành công với Cổng dịch vụ công quốc gia ngay trong năm 2019 thể hiện cam kết của Bộ Công Thương luôn đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác hiện đại hóa, cải cách hành chính, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính tại Bộ Công Thương.

5. Tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” ngành Công Thương

Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” từ phong trào góp phần tạo chuyển biến về nhận thức trong toàn xã hội đã dần trở thành động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng hàng Việt một cách mạnh mẽ. Cuộc vận động đã đóng góp không nhỏ trong việc đảm bảo cho thị trường trong nước giữ vững được đà tăng trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng của tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ xã hội đạt xấp xỉ 17,5% trong 10 năm qua, cao hơn 3 lần so với mức tăng trưởng GDP và đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu (đứng vị trí thứ 6 trong nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu).

Tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” cho thấy, Cuộc vận động đã tạo được niềm tin và sự quan tâm mua sắm, tiêu dùng trong phần lớn người tiêu dùng Việt Nam đối với hàng hóa thương hiệu Việt. Đồng thời, khơi dậy được tiềm năng dồi dào về nguồn lực và năng lực kinh doanh, phân phối của mọi thành phần kinh tế. Từ chỗ vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, đến nay, chúng ta có nhiều sản phẩm hàng hóa chinh phục được người tiêu dùng, trong đó nhiều sản phẩm trở thành niềm tự hào của người Việt Nam với tỷ lệ hàng Việt Nam phân phối qua các kênh phân phối hiện đại từ 80% – 90% và từ 60% trở lên tại các kênh bán lẻ truyền thống.

6. Sự tăng trưởng bứt phá của thương mại điện tử đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường tiềm năng nhất khu vực ASEAN

Việt Nam hiện được đánh giá là một trong những thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là hơn 25% trong giai đoạn hiện nay và được dự báo quy mô thị trường có khả năng lên tới 13 tỷ USD vào năm 2020. Doanh thu hoạt động thương mại điện tử ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng (xấp xỉ 4% và đang gia tăng nhanh). Theo Báo cáo “Kinh tế Internet Đông Nam Á 2018” của Google – Temasek, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam giai đoạn 2015 – 2025 được dự báo ở mức 43%, đưa Việt Nam trở thành nước có nền Thương mại điện tử tăng trưởng nhanh nhất khu vực.

 

Bộ Công Thương đã và đang đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, ứng dụng thương mại điện tử xuyên biên giới với việc tìm hiểu và kết nối với Amazon Global Selling bằng chương trình bán hàng toàn cầu của Amazon nhằm gia tăng xúc tiến thương mại và xuất khẩu qua nền tảng thương mại điện tử, qua đó, nhiều doanh nghiệp đã được hỗ trợ để xuất khẩu hàng hoá qua sàn thương mại điện tử của Amazon. Việc tiếp cận được 300 triệu khách hàng trên Amazon là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ra bước ngoặt mới cho các doanh nghiệp Việt tìm kiếm thị trường, khách hàng mới trên toàn thế giới.

7. Chỉ số tiếp cận điện năng tiếp tục được cải thiện

Theo kết quả đánh giá của Ngân hàng Thế giới tại báo cáo Doing Business 2019, chỉ số Tiếp cận điện năng của Việt Nam tăng năm thứ 6 liên tiếp với số điểm là 88,2 điểm (tăng 0,26 điểm so với năm 2018 là 87,94 điểm) và tiếp tục đứng thứ 4 trong nhóm ASEAN-4 và nhóm 4 nước tốt nhất của các nước tham gia hiệp định CPTPP, đồng thời duy trì vị trí xếp hạng 27 trên tổng số 190 quốc gia và nền kinh tế; duy trì vị trí thứ 2 trong khu vực ASEAN về số thủ tục và thời gian thực hiện của ngành Điện.

Theo đó, tại Việt Nam, khách hàng chỉ cần thực hiện 4 thủ tục, thấp hơn trung bình số thủ tục các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (4,2 thủ tục); Độ tin cậy cung cấp điện và minh bạch về giá điện được Doing Business của Ngân hàng Thế giới đánh giá đạt 7/8 điểm, ngang bằng các nước nhóm 4 ASEAN. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận khi mà năm 2019 chứng kiến sự tụt hạng của một số quốc gia trong khu vực ASEAN như Singapore từ vị trí thứ 16 xuống vị trí thứ 19 thế giới, Philippines tụt xuống đứng thứ 6 khu vực sau Brunei.

8. Việt Nam thành công trong việc sản xuất máy biến áp nguồn dự phòng 500kV công suất 467 MVA

Đây là thành tựu về khoa học công nghệ của quá trình chỉ đạo xuyên suốt của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc “lấy doanh nghiệp làm trung tâm” trong hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo”.

Sản phẩm Máy biến áp nguồn dự phòng 500kV với công suất 467 MVA được lắp đặt tại nhà máy thủy điện Lai Châu và Sơn La là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ giao Tổng công ty Thiết bị điện Đông Anh chủ trì nghiên cứu và triển khai thực hiện.

Thành tựu này là một bước nhảy vọt về năng lực công nghệ, trình độ thiết kế, chế tạo của doanh nghiệp, đảm bảo mọi điều kiện để sản xuất các gam máy biến áp đang vận hành trên lưới điện quốc gia, đảm bảo mọi điều kiện để sản xuất các gam máy biến áp 500kV đang vận hành trên lưới điện quốc gia (máy biến áp nguồn ba pha 500kV công suất đến 750MVA và tổ máy biến áp truyền tải 500kV công suất đến 3x300MVA). Hiện nay, có rất ít công ty trên thế giới có thể sản phẩm máy biến áp nguồn 500kV do sản phẩm này có những yêu cầu kỹ thuật khắt khe nhất, công nghệ thiết kế và chế tạo phức tạp trong các dòng máy biến áp siêu cao áp 500kV.

Đối với ngành điện, sự kiện này đánh dấu việc doanh nghiệp trong nước hoàn toàn đủ khả năng và chủ động trong việc cung cấp các loại máy biến áp đến cấp điện áp đến 500kV phục vụ phát triển lưới điện quốc gia, góp phần vận hành an toàn lưới điện và đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia. Hiện nay Tập đoàn Điện lực Việt Nam đang sử dụng khoảng 835 máy biến áp các loại 110kV, 220kV và 500kV của Tổng công ty Thiết bị điện Đông Anh, chiếm 43% số lượng máy biến áp trên hệ thống lưới điện truyền tải của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Thành tựu khoa học công nghệ này giúp Việt Nam làm chủ được công tác chế tạo, bảo dưỡng một trong những thiết bị chính của nhà máy thủy điện lớn nhất cả nước qua đó đảm bảo khả năng vận hành liên tục và an toàn cho hai Nhà máy Thủy điện Sơn La và Lai châu nói riêng và góp phần đảm bảo anh ninh năng lượng quốc gia nói chung.

9. Quá trình tái cơ cấu lực lượng quản lý thị trường đã đạt được những kết quả tích cực

Được tổ chức lại theo mô hình ngành dọc từ Trung ương đến địa phương theo Quyết định số 34/2018/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ, trước yêu cầu cấp bách của nền kinh tế, xác định được vai trò, trách nhiệm chính trị nặng nề của mình, lực lượng quản lý thị trường đã hết sức tập trung, khẩn trương kiện toàn, tinh gọn bộ máy, tổ chức nhân sự.

Theo đó, Tổng cục Quản lý thị trường đã thiết lập, xây dựng một tổ chức mới hoàn toàn từ khâu thành lập tổ chức Đảng; lập, phê duyệt quy hoạch cán bộ trong toàn lực lượng; hiệp y với chính quyền địa phương trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo các Cục Quản lý thị trường địa phương; đồng thời, thực hiện các biện pháp ổn định tư tưởng đối với công chức, người lao động, nhất là các công chức đã từng giữ chức vụ lãnh đạo quản lý nhưng không đủ tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm lại, nhằm duy trì hoạt động, không làm gián đoạn công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường trên cả nước. Đến nay, Tổng cục đã giảm được 235 đội Quản lý thị trường và sẽ tiếp tục giảm 70 Đội vào năm 2020, từng bước kiện toàn công tác bổ nhiệm lãnh đạo các cấp trong Tổng cục và cơ bản hoàn thành Đề án thành lập 19 Cục Quản lý thị trường liên tỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ.

Năm 2019, lực lượng Quản lý thị trường đã tấn công được vào nhiều điểm nóng, đường dây, ổ nhóm về hàng giả, hàng lậu lớn mà trước đây chưa bao giờ làm được với việc phát hiện, xử lý trên 90.000 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách nhà nước gần 500 tỷ đồng (chưa tính trị giá hàng tịch thu chưa bán). Trong đó, có một số vụ việc nổi bật như: đã xóa sổ 02 Trung tâm thương mại bán hàng giả tại Móng Cái, Quảng Ninh; kiểm tra, xử lý các điểm nóng về sản xuất và kinh doanh hàng giả tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; kiểm tra, xử lý các cơ sở sản xuất, các kho, cửa hàng bán hàng giả, hàng nhái các thương hiệu nổi tiếng thế giới, thay đổi tem nhãn thành “made in Việt Nam”; chuyển Cơ quan điều tra xem xét xử lý 03 vụ việc liên quan đến vi phạm về C/O tại các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tầu, Bình Dương và Vĩnh Phúc; Chuyên án 117-D của Bộ Công an triệt phá đường dây buôn lậu đường tại An Giang và các tỉnh lân cận…

10. Việt Nam đạt được bước phát triển đột phá về năng lượng mặt trời với với công suất đưa vào vận hành lên tới gần 5.000 MW

Cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời của Chính phủ đã tạo động lực mạnh mẽ, thu hút các nhà đầu tư tham gia sản xuất điện mặt trời. Tính đến hết năm 2019, đã có khoảng gần 5.000 MW điện đã được sản xuất từ các nhà máy sản xuất điện mặt trời. Đây là tín hiệu cho thấy sự tích cực và hiệu quả do cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời của Chính phủ trong bối cảnh phụ tải điện tiếp tục tăng cao, yêu cầu về nguồn điện phục vụ phát triển ngày càng lớn; có ý nghĩa quan trọng về mặt đảm bảo cung cấp điện, mỗi năm bổ sung khoảng 7-9 tỷ kWh góp phần giảm nguy cơ thiếu điện, giảm công suất điện chạy dầu giá cao, hướng phát triển ngành năng lượng Việt Nam theo hướng bền vững, giảm phát thải khí nhà kính.

Việc phát triển các dự án điện mặt trời cũng sẽ góp phần phát triển ngành công nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị và công nghệ về năng lượng mặt trời; tạo động lực phát triển tốt thị trường công nghệ mới về năng lượng mặt trời ở Việt Nam, thúc đẩy hiệu quả thị trường mới bắt đầu và còn non trẻ và khai thác có hiệu quả các vùng đất khô cằn, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp./.

Theo Công Thương

Xóa chồng chéo các luật đầu tư kinh doanh, tăng trưởng GDP có thể đạt 9 – 10%

Khẳng định tháo gỡ những điểm chồng chéo sẽ “mở đường” cho đầu tư, huy động được nguồn lực toàn dân, Chủ tịch VCCI cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ có thể đạt mức 9-10%.

Phát biểu tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2019, TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đưa ra kiến nghị ba vấn đề về môi trường kinh doanh.

Khẳng định cần những giải pháp xây dựng cộng đồng doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, góp phần phát triển triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập, Chủ tịch VCCI cho rằng, phát triển bền vững, kinh doanh liêm chính và có trách nhiệm là lẽ sống của doanh nghiệp trong thời hiện đại.

Việt Nam cũng đã xây dựng chương trình quốc gia và thành lập hội đồng quốc gia về phát triển bền vững, vấn đề này cũng đã được lồng ghép vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội.

“Do đó, đề nghị Chính phủ kiến nghị Quốc hội ban hành luật kinh tế tuần hoàn và có chính sách ưu đãi, khuyến khích các sáng kiến và giải pháp đổi mới sáng tạo thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Việc định hướng khung khổ pháp luật và chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn rất quan trọng”, Chủ tịch VCCI khẳng định.

Đặc biệt, TS. Vũ Tiến Lộc đã kiến nghị ba vấn đề để cải thiện môi trường kinh doanh.

Thứ nhất, VCCI đã chỉ ra 20 điểm chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu.

“Các bộ ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cũng thừa nhận những điểm chồng chéo này. Nhưng chúng ta giải quyết rất chậm chễ”, TS. Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.

Do đó, Chủ tịch VCCI đề nghị Chính phủ chủ trì cùng UBTV Quốc hội cùng các bộ ngành liên quan cùng ngồi bàn xem xét cụ thể từng điểm chồng chéo.

TS. Vũ Tiến Lộc đề nghị, dùng 1 luật sửa nhiều luật, dùng 1 nghị định sửa nhiều nghị định, tháo gỡ ngay những điểm chồng chéo này để mở đường cho đầu tư phát triển.

“Nếu tháo gỡ được những điều này thì chúng ta có thể huy động được nguồn lực từ toàn dân, đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Bởi, hiện thủ tục cấp phép đầu tư kéo dài 2-3 năm, nếu có thể hoàn thành trong 6 tháng hay sớm hơn 1 năm thì toàn bộ quá trình đầu tư sẽ nhanh hơn rất nhiều”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.

Đặc biệt, TS. Vũ Tiến Lộc nhận định, nếu tháo gỡ được những điểm chồng chéo “mở đường” cho đầu tư, tăng trưởng nền kinh tế sẽ có thể đạt tới 9-10% “Do đó, đây là điều cần ưu tiên xử lý sớm so với các công việc khác”, Chủ tịch VCCI nói.

Thứ hai, Chủ tịch VCCI đề nghị chính thức hoá hộ kinh doanh. “Đưa hộ kinh doanh thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp với tư cách là loại hình doanh nghiệp một chủ theo thông lệ quốc tế. Đây cũng là mục tiêu thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”, TS. Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.

Theo đó, mỗi hộ kinh doanh đều được đăng ký bởi một cá nhân đại diện cho hộ, tức là về bản chất, hộ kinh doanh chính là doanh nghiệp một chủ theo khái niệm chung của thế giới.

Về bản chất kinh tế, pháp lý và thực tiễn, các hộ kinh doanh, trước hết là các hộ kinh doanh có đăng ký, chính là một loại hình doanh nghiệp nhưng lại chưa được coi là doanh nghiệp và nhiều hộ kinh doanh hiện tại đang có quy mô, và số lao động được sử dụng thậm chí còn lớn hơn các công ty. Đó là một trong những khiếm khuyết lớn nhất trong hệ thống pháp luật về doanh nghiệp hiện hành.

Thứ ba, TS. Vũ Tiến Lộc kiến nghị sớm hoàn thành khung pháp lý về hợp tác công tư (PPP). “Hoàn thành khung pháp lý về PPP đảm bảo minh bạch, an toàn, đảm bảo huy động được nguồn lực xã hội không chỉ với các dự án hạ tầng, mà còn các đề án sản xuất kinh doanh”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.

Cũng theo Chủ tịch VCCI, hiện các doanh nghiệp tư nhân lớn đang đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn như sản xuất ô tô, công nghệ thông tin… Đây là những lĩnh vực không chỉ là kinh tế mà là an ninh quốc phòng, do đó, cần khung khổ pháp lý hoàn thiện thúc đẩy hình thức đối tác công tư phát triển.

Theo Realtimes

Bộ ngành “khoe” cắt hàng nghìn thủ tục, doanh nghiệp than chỉ cắt giảm hình thức

Bộ Thông tin – Truyền thông báo cáo cắt giảm được gần 60% điều kiện kinh doanh, giảm chi phí 36 tỷ đồng/năm. Bộ Y tế thống kê cắt gần 1.400/2.000 thủ tục, giúp tiết kiệm 3.300 tỷ/năm. Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng yêu cầu xem lại tính thực chất của hoạt động này khi doanh nghiệp vẫn ta thán.

Sáng 21/8, Tổ công tác của Thủ tướng làm việc với 14 bộ, ngành để kiểm tra, xem xét việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn luật còn nợ đọng và việc cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh dưới sự chủ trì của Tổ trưởng Mai Tiến Dũng – Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.

Văn bản hướng dẫn luật nợ đọng… 8 tháng

Ông Mai Tiến Dũng cho biết, vấn đề thể chế, đôn đốc các bộ, cơ quan ban hành kịp thời văn bản là nhiệm vụ được Thủ tướng đặc biệt quan tâm trong nhiệm kỳ này. Vấn đề thường xuyên được đặt ra trong các phiên họp Chính phủ, họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, họp Thường trực Chính phủ. Đây cũng là nội dung được cơ quan lập pháp (Quốc hội) liên tục đốc thúc, đề cập, gần nhất là phiên chất vấn Phó Thủ tướng, 15 Bộ trưởng, trưởng ngành tại UB Thường vụ Quốc hội ngày 15/8 vừa qua.

Trong năm 2019, Tổ công tác của Thủ tướng đã tiến hành 2 buổi làm việc với các bộ để thúc đẩy các bộ ban hành các văn bản hướng dẫn luật có hiệu lực. Tại cuộc kiểm tra đầu tiên vào tháng 3/2019, Tổ công tác xác định có 36 văn bản còn nợ đọng thuộc trách nhiệm của các bộ, tới lần kiểm tra thứ 2, số lượng văn bản nợ đọng giảm xuống còn 20.

Cuộc kiểm tra lần thứ 3 hôm nay, theo thống kê của Văn phòng Chính phủ, hiện còn 14 văn bản để quy định chi tiết các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực thi hành đang nợ, trong đó có 6 văn bản nợ quá hạn đã lâu, hầu hết quá hạn 1-3 tháng nhưng cũng có đã nợ quá hạn 4 tháng, thậm chí tới 8. Đây là những rào cản lớn cho việc thực thi pháp luật.

Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng cảnh báo, 1/1/2020 tới đây, có 16 nghị định quy định chi tiết thi hành có hiệu lực, tức chậm nhất 15/11/2019 các bộ ngành phải hoàn thành số văn bản này. Tiếp đó, thêm 12 nghị định quy định chi tiết sẽ có hiệu lực từ 1/7/2020. Như vậy, thời gian tới, khối lượng văn bản phải làm rất lớn, nếu không quyết liệt sẽ không thể hoàn thành.

Nội dung khác, về việc cắt giảm thực chất và thực thi điều kiện kinh doanh cũng như việc cải cách thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên ngành hàng hoá xuất nhập khẩu, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng khái quát tình hình chung, các Bộ, ngành đã làm rất tích cực, quyết liệt thời gian qua. Kết quả, 3.100 điều kiện trên tổng số hơn 6.000 điều kiện kinh doanh đã được cắt giảm, 6.700 thủ tục kiểm tra chuyên ngành liên quan đến dòng hàng, mặt hàng trên tổng số 9.600 mặt hàng cũng được bãi bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Theo đó, hoạt động sản xuất inh doanh, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện nhiều.

Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng phấn khởi với báo cáo của Bộ Tài chính về việc cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong lĩnh vực này đã làm gia tăng số giấy chứng nhận kinh doanh được lập. Tiêu biểu như  ngành bảo hiểm, gia tăng doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm với loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư tăng hơn 300% so với cùng kỳ 2018, bảo hiểm nhân thọ tăng hơn 215% so với cùng kỳ 2018.

Cắt giảm hình thức, chạy theo thành tích

Tuy nhiên, cũng có những ý kiến từ nhiều cơ quan cho rằng, cần xem xét thực chất các kết quả này. Có ý kiến  cho rằng, công tác kiểm tra chuyên ngành 6 tháng đầu năm 2019 chậm, chủ yếu chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm trước khi thông quan chứ không phải là xoá bỏ việc kiểm tra như Thủ tướng chỉ đạo.

Cũng có ý kiến nhận định, việc kiểm tra chuyên ngành còn hình thức, việc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật còn chậm. Có những văn bản, thông tư thuộc thẩm quyền của các Bộ trưởng còn nhiều vấn đề phải xem xét, như “thủ thuật” chuyển điều kiện kinh doanh thành tiêu chuẩn, quy chuẩn “đánh đố” doanh nghiệp.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ dẫn chứng, VCCI từng nhận xét, cón hơn 300 văn bản quy định rất rộng, rất khó cho việc tra cứu, áp dụng. Vẫn còn tình trạng một mặt hàng, sản phẩm chịu sự kiểm tra của nhiều đầu mối trong 1 bộ hoặc nhiều bộ. Lãnh đạo VCCI cho rằng, có tình trạng điều kiện kinh doanh “hoá thân” vào quy chuẩn, tiêu chuẩn, không giải quyết được bài toán đề ra, tình trạng xin – cho còn nguyên, thậm chí còn nặng nề hơn. Theo đó, chi phí không chính thức với doanh nghiệp có giảm nhưng vẫn ở mức cao trong khu vực trong khi giảm chi phí chính là quyết tâm đề ra của Thủ tướng.

Nhiều hiệp hội doanh nghiệp cũng than là các bộ, ngành chưa tuân thủ chỉ đạo của Thủ tướng.

Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (VICEM) cũng bất bình khi thực tế việc cắt giảm mới chỉ là hình thức khi thủ tục giảm nhưng thời gian xử lý công việc không giảm. Một vấn đề doanh nghiệp hỏi ý kiến vẫn phải chờ vài ba bộ trả lời, hầu hết trả lời đúng hạn trong vòng 1 tháng thì chỉ cần một bộ kéo dài đến 3 tháng là các khâu khác cùng phải chậm lại để… chờ. Việc cắt giảm như vậy chưa mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ gỡ bung ra những vướng mắc nhỏ.

Ở khía cạnh khác, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng chỉ rõ, một số đơn vị chỉ chạy theo mục đích cắt giảm cơ học các thủ tục, một số khác cũng làm vì thành tích, cắt giảm “lấy được” mà không quan tấm đến yêu cầu đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước.

Để hoạt động này đi vào thực chất, Thủ tướng đã chỉ đạo với tinh thần, cương quyết cắt bỏ những thủ tục gắn với quyền lợi cục bộ của các bộ, ngành.

Báo cáo tại cuộc làm việc, đại diện Bộ Thông tin – Truyền thông khẳng định Bộ này không có văn bản nợ đọng. Về việc cắt giảm điều kiện kinh doanh, Bộ này phụ trách 6 lĩnh vực nhưng tổng số điều kiện kinh doanh không nhiều, trong tổng số 385 điều kiện, đến nay 209 thủ tục đã được cắt giảm, chiếm tỷ lệ 59%, đảm bảo chỉ tiêu đề ta. Về số thủ tục hành chính, Bộ cũng bãi bỏ được 35 trên tổng số hơn 200 thủ tục. Việc này giúp tiết kiệm cho doanh nghiệp 20.000 giờ/năm, chi phí giảm 36 tỷ/năm.

Tuy nhiên, đại diện Bộ Thông tin – Truyền thông cũng lo ngại việc quản lý sẽ “chuyển từ thái cực nọ sang thái cực kia” với “trào lưu” cắt giảm. “Việc quản lý trong điều kiện hiện nay, khi công nghệ thay đổi liên tục, kỹ thuật mới liên tục cập nhật, nếu cứ cắt giảm mãi cho đủ số lượng, sợ là đến lúc có vấn đề thì trở tay không kịp” – đại diện Bộ này trình bày.

Vụ trưởng Vụ Trang thiết bị và công trình y tế, Bộ Y tế nêu những con số ấn tượng, đã giảm 1.392/2.005 điều kiện đầu tư kinh doanh, đạt 69,43%. Thủ tục hành chính cắt 167/245 thủ tục hành chính. Theo tính toán, việc này giúp tiết kiệm 8.000 ngày công, tương đương 3.332 tỷ đồng/năm, đó là chưa tính tới chi phí cơ hội…

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhận xét: “Số liệu cắt giảm của Bộ Y tế rất cao nhưng cần xem xét lại về thực chất việc cắt giảm vì nhiều doanh nghiệp liên quan lĩnh vực trang thiết bị y tế, dược còn kêu nhiều lắm, chỉ có lĩnh vực liên quan đến an toàn thực phẩm phản hồi tốt. Doanh nghiệp vẫn chưa hài lòng đâu”.

Theo Dân trí