Bộ Công Thương đồng hành cùng Hiệp hội giúp doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sau dịch bệnh Covid-19

Tham dự cuộc họp có đại điện các đơn vị thuộc Bộ như Cục Công nghiệp, Vụ Thị trường Châu Âu – Châu Mỹ, Vụ Thị trường Châu Á – Châu Phi, đại diện các Hiệp hội, ngành hàng chủ chốt trong lĩnh vực nông sản, thủy sản, công nghiệp như Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Hiệp hội Rau quả Việt Nam, Hiệp Hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Sàn Việt Nam, Hiệp hội Giấy và Bột giấy, Hiệp hội Nhựa Việt Nam…

Doanh nghiệp khó tiếp cận với các gói hỗ trợ

Báo cáo tình hình xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, các thị trường tăng mạnh xuất khẩu tập trung ở khu vực Châu Mỹ. Cụ thể, xuất khẩu sang khu vực này đạt 19 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sang Hoa Kỳ đạt 15,95 tỷ USD, tăng 20%; sang Canada đạt 975 triệu USD tăng 13%; sang Mexico đạt 798 triệu USD, tăng 61%; sang Braxin đạt 511 triệu USD, tăng 11%; sang Chile đạt 287 triệu USD, tăng 93%; sang Argentina tăng 55%; sang Colombia tăng 93%; sang Panama tăng 73% và sang Peru tăng 82%.

Các thị trường khác có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là: Trung Quốc (đạt 9,35 tỷ USD, tăng 22,8%); Nhật (đạt 5 tỷ USD, tăng 7,8%); Đài Loan (đạt 1,1 tỷ USD, tăng 36,3%); Australia (đạt 924 triệu USD, tăng 11,6%).

Xuất khẩu sang châu Âu đạt khoảng 10,4 tỷ USD, giảm 5,9% so với cùng kỳ. Xuất khẩu sang EU (tính cả Anh) đạt 9,61 tỷ USD, giảm 5,7%. Trong đó: sang Pháp đạt 771,6 triệu USD, giảm 19%; sang Italy đạt 758,7 triệu USD, giảm 17,4%; sang Tây Ban Nha đạt 551,6 triệu USD, giảm 16,4%; sang Anh đạt 1,28 tỷ USD, giảm 6,6%.

Kim ngạch xuất khẩu tháng 4 năm 2020 ước đạt 19,7 tỷ USD, giảm 18,4% so với tháng 3, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 82,9 tỷ USD, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

Tại cuộc họp, đại diện các Hiệp hội cho biết, sự hỗ trợ thiết thực nhất của Nhà nước lúc này chính là hỗ trợ cho các doanh nghiệp giảm chi phí, đồng thời thông qua doanh nghiệp hỗ trợ người lao động để có thể duy trì đội ngũ công nhân, đẩy mạnh sản xuất ngay sau dịch.

Một số gói hỗ trợ thời gian qua đã được triển khai, tuy nhiên còn chưa phù hợp với thực tế khiến doanh nghiệp khó tiếp cận.

Bổ sung thêm khoản vay bằng USD bên cạnh VNĐ

Tại buổi làm việc, Hiệp hội Giấy và Bột giấy chia sẻ, để khắc phục những khó khăn chung mà các doanh nghiệp các ngành khác cũng gặp phải do dịch bệnh, các doanh nghiệp ngành giấy vẫn nỗ lực không ngừng để trụ vững, vượt qua giai đoạn khó khăn, đảm bảo đời sống cho người lao động. Một số doanh nghiệp ngành giấy đã rất linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh. Chẳng hạn, để đảm bảo hoạt động kinh doanh được ổn định doanh nghiệp đã tranh thủ dịch để dừng sản xuất, bảo trì máy, chuyển đổi mô hình, khai thác các khách hàng mới, tận dụng thời cơ Trung Quốc khan hiếm nguyên liệu để xuất khẩu hàng tồn kho …

Thay mặt doanh nghiệp, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam kiến nghị cần đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng, linh hoạt hơn trong các thủ tục, chính sách để doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn, đảm bảo kinh doanh, vực dậy nền kinh tế. Việc giữ nhóm nợ rất quan trọng với doanh nghiệp, nhất là giai đoạn này, vì thế các ngân hàng cần áp dụng sát các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp. Áp dụng các chính sách hỗ trợ với các nhóm nợ và bổ sung thêm khoản vay bằng USD bên cạnh VNĐ. Miễn đóng phí công đoàn thay vì hoãn đóng năm 2020, hoặc giảm phí công đoàn từ 2% xuống 1% và áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp, không cần có điều kiện kèm theo…

Theo Hiệp hội Dệt may, với các kịch bản kết thúc dịch bệnh và phục hồi khác nhau từ các nước trên thế giới, chắc chắn, ngành dệt may Việt Nam sẽ có một năm suy giảm mạnh về kim ngạch xuất khẩu.

Trong một kịch bản lạc quan nhất, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may năm 2020 sẽ đạt khoảng 35 tỷ USD, giảm 10% so với năm 2019. Với kịch bản hiện thực, con số này là 33,5 tỷ USD và với kịch bản xấu nhất, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may chỉ đạt 30-31 tỷ USD.

Mới đây, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã gửi các văn bản kiến nghị đến Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng các Bộ, ngành liên quan đề nghị có các giải pháp tích cực hỗ trợ cho doanh nghiệp. Hiện nay, theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp dệt may, gói hỗ trợ về tài chính chưa đến tay các doanh nghiệp. Có rất nhiều doanh nghiệp, thậm chí là doanh nghiệp lớn đang phải “gồng mình” để cố gắng bằng mọi phương án (trong đó có phương án chuyển đổi sang sản xuất khẩu trang) để duy trì sản xuất và giữ chân người lao động. Tuy nhiên, với những nỗ lực như vậy, doanh nghiệp vẫn không đủ điều kiện để được hưởng gói hỗ trợ của nhà nước.

Hiện tại, Hiệp hội Dệt may cũng đang phối hợp với các cơ quan hữu quan, hướng dẫn, đào tạo doanh nghiệp chuẩn bị những bước đi thật tốt để đón nhận cơ hội từ Hiệp định EVFTA.

Kết luận buổi làm việc, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Phan Văn Chinh khẳng định, Cục Xuất nhập khẩu sẽ tiếp tục tổng hợp các ý kiến của các Hiệp hội, đặc biệt các ý kiến trong bối cảnh mới, trạng thái mới để báo cáo Lãnh đạo Bộ, đề xuất giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu giai đoạn hậu Covid-19. “Bộ Công Thương sẵn sàng làm việc cùng với từng ngành hàng, mặt hàng cụ thể để trao đổi về cách thực phối hợp. Bộ sẽ trao đổi thêm với các Thương vụ, các thị trường nước ngoài để hỗ trợ thông tin, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua những khó khăn do dịch bệnh gây ra” – Cục trưởng Phan Văn Chinh nhấn mạnh.

Theo Cổng thông tin Bộ Công Thương

10 sự kiện nổi bật ngành Công Thương năm 2019

Năm 2019 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của đất nước ta trong việc tiến tới hoàn thành các mục tiêu Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020. Dưới sự chỉ đạo thống nhất, sát sao, hiệu quả trong công tác điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ với phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, Bộ Công Thương đã cụ thể hóa thành các kế hoạch hành động cụ thể và tập trung triển khai với tinh thần trách nhiệm cao nhất, qua đó đến nay đã đạt được các kết quả toàn diện trên các lĩnh vực hoạt động của Ngành, tất cả các chỉ tiêu kế hoạch đều thực hiện đạt và vượt mức Quốc hội và Chính phủ giao.

Trong đó, một số sự kiện nổi bật tạo nên dấu ấn thành công trong năm 2019 của Ngành như sau:

1. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 500 tỷ USD

Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu giảm thấp do tác động của xung đột thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc; xu hướng bảo hộ mậu dịch và việc các nước đang ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế thương mại, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng xuất nhập khẩu ở mức cao, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 vượt mốc 500 tỷ USD.

Đây là kết quả phản ánh sự nỗ lực của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương, trong đó có Bộ Công Thương trong việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh tạo động lực cho doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất và xuất khẩu cũng như như thu hút mở rộng đầu tư cho phát triển xuất khẩu; củng cố và tiếp tục khai thác có hiệu quả các thị trường xuất khẩu truyền thống; mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới từ việc tận dụng các Hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực; đặc biệt cho thấy sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp đã tận dụng tốt hơn cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do để đẩy mạnh xuất khẩu.

2. Việt Nam thực hiện mở cửa hội nhập một cách mạnh mẽ hơn với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương chính thức có hiệu lực và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu chính thức được ký kết.

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đi vào thực thi và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu chính thức được ký kết là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới.

Ngay từ năm đầu tiên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các thành viên đã thực thi Hiệp định này có tốc độ tăng trưởng cao trên hai con số, tập trung vào các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như điện thoại các loại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; hàng thủy sản; và hàng dệt, may…

Việc chính thức ký kết Hiệp định Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, làm sâu sắc hơn mối quan hệ về kinh tế và thương mại nhằm tận dụng tối đa lợi thế và tiềm năng của nhau để mang lại lợi ích cho cả hai bên, giúp Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Đồng thời, tạo cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn trong giai đoạn tới.

3. Công tác quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận thương mại, xuất xứ được củng cố, góp phần quan trọng ổn định thị trường

Năm 2019, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của thương mại toàn cầu, đặc biệt là dưới áp lực của xung đột thương mại Mỹ – Trung, các hành vi gian lận xuất xứ, gian lận thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại có xu hướng gia tăng với các hình thức ngày càng tinh vi, phức tạp. Để tăng cường công tác quản lý đối với các vấn đề này, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án 824 theo Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2019 phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ và Quyết định 2094A/QĐ-BCT ngày 15 tháng 7 năm 2019 về Kế hoạch hành động của Bộ Công Thương để triển khai Đề án 824.

Theo đó, Bộ Công Thương đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai quyết liệt công tác chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, xuất xứ, ngăn chặn hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất và người tiêu dùng trong nước.

4. Bộ Công Thương là Bộ đầu tiên thực hiện kết nối với Cổng dịch vụ công Quốc gia

Cổng Dịch vụ công Quốc gia tổ chức trên phạm vi toàn quốc được chính thức khai trương vào ngày 09 tháng 12 năm 2019 với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử.

Với quan điểm công khai, minh bạch, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, những dịch vụ nào người dân doanh nghiệp cần thì triển khai trước, Bộ Công Thương là đơn vị đầu tiên thí điểm kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia. Theo đó, Bộ đã chủ động lựa chọn những dịch vụ công thuộc thẩm quyền của Bộ có số lượng hồ sơ lớn, có tác động trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp đưa lên Cổng dịch vụ công quốc gia, gồm: (1) Cấp giấy chứng nhận xuất xứ ưu đãi và (2) Đăng ký hoạt động khuyến mại. Đây là các nhóm thủ tục có số lượng hồ sơ trực tuyến lớn nhất thực hiện tại của Bộ Công Thương.

Việc kết nối thành công với Cổng dịch vụ công quốc gia ngay trong năm 2019 thể hiện cam kết của Bộ Công Thương luôn đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác hiện đại hóa, cải cách hành chính, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính tại Bộ Công Thương.

5. Tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” ngành Công Thương

Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” từ phong trào góp phần tạo chuyển biến về nhận thức trong toàn xã hội đã dần trở thành động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng hàng Việt một cách mạnh mẽ. Cuộc vận động đã đóng góp không nhỏ trong việc đảm bảo cho thị trường trong nước giữ vững được đà tăng trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng của tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ xã hội đạt xấp xỉ 17,5% trong 10 năm qua, cao hơn 3 lần so với mức tăng trưởng GDP và đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu (đứng vị trí thứ 6 trong nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu).

Tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” cho thấy, Cuộc vận động đã tạo được niềm tin và sự quan tâm mua sắm, tiêu dùng trong phần lớn người tiêu dùng Việt Nam đối với hàng hóa thương hiệu Việt. Đồng thời, khơi dậy được tiềm năng dồi dào về nguồn lực và năng lực kinh doanh, phân phối của mọi thành phần kinh tế. Từ chỗ vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, đến nay, chúng ta có nhiều sản phẩm hàng hóa chinh phục được người tiêu dùng, trong đó nhiều sản phẩm trở thành niềm tự hào của người Việt Nam với tỷ lệ hàng Việt Nam phân phối qua các kênh phân phối hiện đại từ 80% – 90% và từ 60% trở lên tại các kênh bán lẻ truyền thống.

6. Sự tăng trưởng bứt phá của thương mại điện tử đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường tiềm năng nhất khu vực ASEAN

Việt Nam hiện được đánh giá là một trong những thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là hơn 25% trong giai đoạn hiện nay và được dự báo quy mô thị trường có khả năng lên tới 13 tỷ USD vào năm 2020. Doanh thu hoạt động thương mại điện tử ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng (xấp xỉ 4% và đang gia tăng nhanh). Theo Báo cáo “Kinh tế Internet Đông Nam Á 2018” của Google – Temasek, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam giai đoạn 2015 – 2025 được dự báo ở mức 43%, đưa Việt Nam trở thành nước có nền Thương mại điện tử tăng trưởng nhanh nhất khu vực.

 

Bộ Công Thương đã và đang đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, ứng dụng thương mại điện tử xuyên biên giới với việc tìm hiểu và kết nối với Amazon Global Selling bằng chương trình bán hàng toàn cầu của Amazon nhằm gia tăng xúc tiến thương mại và xuất khẩu qua nền tảng thương mại điện tử, qua đó, nhiều doanh nghiệp đã được hỗ trợ để xuất khẩu hàng hoá qua sàn thương mại điện tử của Amazon. Việc tiếp cận được 300 triệu khách hàng trên Amazon là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ra bước ngoặt mới cho các doanh nghiệp Việt tìm kiếm thị trường, khách hàng mới trên toàn thế giới.

7. Chỉ số tiếp cận điện năng tiếp tục được cải thiện

Theo kết quả đánh giá của Ngân hàng Thế giới tại báo cáo Doing Business 2019, chỉ số Tiếp cận điện năng của Việt Nam tăng năm thứ 6 liên tiếp với số điểm là 88,2 điểm (tăng 0,26 điểm so với năm 2018 là 87,94 điểm) và tiếp tục đứng thứ 4 trong nhóm ASEAN-4 và nhóm 4 nước tốt nhất của các nước tham gia hiệp định CPTPP, đồng thời duy trì vị trí xếp hạng 27 trên tổng số 190 quốc gia và nền kinh tế; duy trì vị trí thứ 2 trong khu vực ASEAN về số thủ tục và thời gian thực hiện của ngành Điện.

Theo đó, tại Việt Nam, khách hàng chỉ cần thực hiện 4 thủ tục, thấp hơn trung bình số thủ tục các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (4,2 thủ tục); Độ tin cậy cung cấp điện và minh bạch về giá điện được Doing Business của Ngân hàng Thế giới đánh giá đạt 7/8 điểm, ngang bằng các nước nhóm 4 ASEAN. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận khi mà năm 2019 chứng kiến sự tụt hạng của một số quốc gia trong khu vực ASEAN như Singapore từ vị trí thứ 16 xuống vị trí thứ 19 thế giới, Philippines tụt xuống đứng thứ 6 khu vực sau Brunei.

8. Việt Nam thành công trong việc sản xuất máy biến áp nguồn dự phòng 500kV công suất 467 MVA

Đây là thành tựu về khoa học công nghệ của quá trình chỉ đạo xuyên suốt của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc “lấy doanh nghiệp làm trung tâm” trong hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo”.

Sản phẩm Máy biến áp nguồn dự phòng 500kV với công suất 467 MVA được lắp đặt tại nhà máy thủy điện Lai Châu và Sơn La là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ giao Tổng công ty Thiết bị điện Đông Anh chủ trì nghiên cứu và triển khai thực hiện.

Thành tựu này là một bước nhảy vọt về năng lực công nghệ, trình độ thiết kế, chế tạo của doanh nghiệp, đảm bảo mọi điều kiện để sản xuất các gam máy biến áp đang vận hành trên lưới điện quốc gia, đảm bảo mọi điều kiện để sản xuất các gam máy biến áp 500kV đang vận hành trên lưới điện quốc gia (máy biến áp nguồn ba pha 500kV công suất đến 750MVA và tổ máy biến áp truyền tải 500kV công suất đến 3x300MVA). Hiện nay, có rất ít công ty trên thế giới có thể sản phẩm máy biến áp nguồn 500kV do sản phẩm này có những yêu cầu kỹ thuật khắt khe nhất, công nghệ thiết kế và chế tạo phức tạp trong các dòng máy biến áp siêu cao áp 500kV.

Đối với ngành điện, sự kiện này đánh dấu việc doanh nghiệp trong nước hoàn toàn đủ khả năng và chủ động trong việc cung cấp các loại máy biến áp đến cấp điện áp đến 500kV phục vụ phát triển lưới điện quốc gia, góp phần vận hành an toàn lưới điện và đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia. Hiện nay Tập đoàn Điện lực Việt Nam đang sử dụng khoảng 835 máy biến áp các loại 110kV, 220kV và 500kV của Tổng công ty Thiết bị điện Đông Anh, chiếm 43% số lượng máy biến áp trên hệ thống lưới điện truyền tải của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Thành tựu khoa học công nghệ này giúp Việt Nam làm chủ được công tác chế tạo, bảo dưỡng một trong những thiết bị chính của nhà máy thủy điện lớn nhất cả nước qua đó đảm bảo khả năng vận hành liên tục và an toàn cho hai Nhà máy Thủy điện Sơn La và Lai châu nói riêng và góp phần đảm bảo anh ninh năng lượng quốc gia nói chung.

9. Quá trình tái cơ cấu lực lượng quản lý thị trường đã đạt được những kết quả tích cực

Được tổ chức lại theo mô hình ngành dọc từ Trung ương đến địa phương theo Quyết định số 34/2018/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ, trước yêu cầu cấp bách của nền kinh tế, xác định được vai trò, trách nhiệm chính trị nặng nề của mình, lực lượng quản lý thị trường đã hết sức tập trung, khẩn trương kiện toàn, tinh gọn bộ máy, tổ chức nhân sự.

Theo đó, Tổng cục Quản lý thị trường đã thiết lập, xây dựng một tổ chức mới hoàn toàn từ khâu thành lập tổ chức Đảng; lập, phê duyệt quy hoạch cán bộ trong toàn lực lượng; hiệp y với chính quyền địa phương trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo các Cục Quản lý thị trường địa phương; đồng thời, thực hiện các biện pháp ổn định tư tưởng đối với công chức, người lao động, nhất là các công chức đã từng giữ chức vụ lãnh đạo quản lý nhưng không đủ tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm lại, nhằm duy trì hoạt động, không làm gián đoạn công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường trên cả nước. Đến nay, Tổng cục đã giảm được 235 đội Quản lý thị trường và sẽ tiếp tục giảm 70 Đội vào năm 2020, từng bước kiện toàn công tác bổ nhiệm lãnh đạo các cấp trong Tổng cục và cơ bản hoàn thành Đề án thành lập 19 Cục Quản lý thị trường liên tỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ.

Năm 2019, lực lượng Quản lý thị trường đã tấn công được vào nhiều điểm nóng, đường dây, ổ nhóm về hàng giả, hàng lậu lớn mà trước đây chưa bao giờ làm được với việc phát hiện, xử lý trên 90.000 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách nhà nước gần 500 tỷ đồng (chưa tính trị giá hàng tịch thu chưa bán). Trong đó, có một số vụ việc nổi bật như: đã xóa sổ 02 Trung tâm thương mại bán hàng giả tại Móng Cái, Quảng Ninh; kiểm tra, xử lý các điểm nóng về sản xuất và kinh doanh hàng giả tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; kiểm tra, xử lý các cơ sở sản xuất, các kho, cửa hàng bán hàng giả, hàng nhái các thương hiệu nổi tiếng thế giới, thay đổi tem nhãn thành “made in Việt Nam”; chuyển Cơ quan điều tra xem xét xử lý 03 vụ việc liên quan đến vi phạm về C/O tại các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tầu, Bình Dương và Vĩnh Phúc; Chuyên án 117-D của Bộ Công an triệt phá đường dây buôn lậu đường tại An Giang và các tỉnh lân cận…

10. Việt Nam đạt được bước phát triển đột phá về năng lượng mặt trời với với công suất đưa vào vận hành lên tới gần 5.000 MW

Cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời của Chính phủ đã tạo động lực mạnh mẽ, thu hút các nhà đầu tư tham gia sản xuất điện mặt trời. Tính đến hết năm 2019, đã có khoảng gần 5.000 MW điện đã được sản xuất từ các nhà máy sản xuất điện mặt trời. Đây là tín hiệu cho thấy sự tích cực và hiệu quả do cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời của Chính phủ trong bối cảnh phụ tải điện tiếp tục tăng cao, yêu cầu về nguồn điện phục vụ phát triển ngày càng lớn; có ý nghĩa quan trọng về mặt đảm bảo cung cấp điện, mỗi năm bổ sung khoảng 7-9 tỷ kWh góp phần giảm nguy cơ thiếu điện, giảm công suất điện chạy dầu giá cao, hướng phát triển ngành năng lượng Việt Nam theo hướng bền vững, giảm phát thải khí nhà kính.

Việc phát triển các dự án điện mặt trời cũng sẽ góp phần phát triển ngành công nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị và công nghệ về năng lượng mặt trời; tạo động lực phát triển tốt thị trường công nghệ mới về năng lượng mặt trời ở Việt Nam, thúc đẩy hiệu quả thị trường mới bắt đầu và còn non trẻ và khai thác có hiệu quả các vùng đất khô cằn, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp./.

Theo Công Thương