

Thủ tướng sẽ thành lập Tổ công tác đặc biệt về thúc đẩy cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, với mục tiêu dự kiến cắt giảm 20% các văn bản đã ban hành thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, ít nhất 20% chi phí hành chính tuân thủ quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh mỗi năm.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết điều này tại cuộc họp ngày 2/1 về việc xây dựng công cụ và kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.
Theo dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch, nòng cốt của Tổ công tác này là VPCP, Bộ Tư pháp và lãnh đạo cấp vụ, cục của các bộ liên quan.
Cắt giảm và ngăn chặn
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, buổi làm việc đầu tiên trong năm mới bàn về nội dung này cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Thủ tướng Chính phủ. Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách nhưng các nước cũng cải cách rất mạnh. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2019 tăng tới 10 bậc, nhưng môi trường kinh doanh lại tụt 1 hạng dù vẫn tăng điểm.
Quan điểm chỉ đạo của kế hoạch là cắt giảm ngay những quy định là rào cản với hoạt động sản xuất, kinh doanh và ngăn chặn việc phát sinh các quy định mới làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Với các quy định nằm trong luật, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội sửa đổi.
Tinh thần chung của kế hoạch này là sẽ tiếp tục quyết liệt trong cải cách thủ tục hành chính, trong đó có việc sửa đổi 25 điểm chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật mà Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI) chỉ ra mới đây. Đặc biệt, phải kiểm soát việc ban hành các thông tư, nhiều rào cản rất lớn đang nằm trong các văn bản này. Cùng với đó, cải cách mạnh mẽ các quy định về kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Một điểm nổi bật của dự thảo kế hoạch là nguyên tắc khi ban hành một văn bản mới phải bãi bỏ ít nhất một văn bản cũ, riêng thông tư thì ban hành một phải bãi bỏ ít nhất hai. Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết thêm, sẽ tham khảo kinh nghiệm của Vương quốc Anh về nội dung này.
Cùng với đó, kế hoạch sẽ nghiên cứu bộ công cụ tính toán chi phí tuân thủ của người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các quy định; xếp hạng, đánh giá sự tích cực của bộ ngành, địa phương. “Báo chí và doanh nghiệp phản ánh rằng có những bộ công bố cắt giảm điều kiện và thủ tục nhưng thực chất không được như thế”, Bộ trưởng nói.
Không để cắt cái này, mọc cái khác
Cung cấp thêm thông tin về dự thảo kế hoạch, ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, VPCP nhắc lại tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng là “cái gì làm được thì làm ngay đừng để hôm sau”. Ông cũng cho rằng, hiện nay là thời điểm chín muồi để đẩy mạnh cải cách, đặc biệt là về công cụ. Hiện VPCP đang phối hợp với VNPT đểxây dựng phần mềm thống kê tất cả các văn bản có liên quan tới hoạt động kinh doanh, kể từ cấp công văn hướng dẫn cho tới luật, nghị quyết của Quốc hội. Việc này cũng phù hợp với khuyến nghị của OECD.
Cùng với đó, quá trình rà soát cũng sẽ xem xét cả các dự thảo văn bản, do đó các đơn vị của các bộ cũng cần phải vào cuộc tích cực, chặt chẽ, tránh tính trạng “cắt cái này mọc cái khác như đầu Phạm Nhan”.
Cũng theo ông Ngô Hải Phan, một hướng khác là khi hướng dẫn các luật, nếu thuộc phạm vi quản lý của một bộ thì chỉ ban hành một nghị định hướng dẫn, tránh tình trạng một luật ban hành hàng chục nghị định, “rất mất thời gian và nguồn lực của Chính phủ”. Cũng tương tự như vậy với các thông tư.
Trước mắt trong năm 2020, mục tiêu là xử lý ngay những vấn đề mà VCCI cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã đề xuất. Đồng thời, thống kê đầy đủ toàn bộ các văn bản liên quan tới hoạt động kinh doanh.
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cũng cho rằng, cần hạn chế việc ban hành các thông tư, tiến tới làm sao ban hành nghị định mà không cần thông tư hướng dẫn. Ông nhắc tới việc mới đây, một Cục của một Bộ ban hành một công văn mà “cả nước phải theo”. “Cần xác định rõ thẩm quyền, thông tư của Bộ đang quy định thế này nhưng Cục ra văn bản yêu cầu không thực hiện như thế nữa. Việc thực hiện kế hoạch sẽ chỉ rõ những việc tương tự, tránh việc tự tiện ban hành như vậy”.
Cách tiếp cận mới, khó và triệt để
Ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng CIEM cho biết “vô cùng hoan nghênh và đánh giá rất cao” sáng kiến triển khai kế hoạch này. “Điều này vượt qua tất cả các giải pháp cải cách mà chúng ta đang làm và chúng tôi rất kỳ vọng, vì kế hoạch này không dừng lại ở việc cắt giảm thủ tục, điều kiện mà bãi bỏ hẳn quy định, văn bản. Tôi biết, Vương quốc Anh có khái niệm về quy định thông minh, với hàm ý rằng với một xã hội ngày càng thông minh, thì nhà nước nên ban hành ít quy định thôi, nhưng quy định phải thông minh”, ông Hiếu phát biểu.
Đồng ý với các nguyên tắc mà dự thảo kế hoạch nêu ra, ông Phan Đức Hiếu góp ý thêm, nên hướng tới việc chỉ ban hành một nghị định, một thông tư cho mỗi lĩnh vực, mỗi vấn đề hoặc nhóm lĩnh vực, nhóm vấn đề, nếu không sẽ tiếp tục chồng chéo. Cùng với đó, các quy định về kinh doanh rất rộng, Tổ công tác cần xác định trọng tâm cải cách để tránh tình trạng các bộ sẽ “ưu tiên” đề xuất cắt giảm các nội dung dễ làm nhưng ít có ý nghĩa.
Đánh giá cao cách tiếp cận của dự thảo kế hoạch là tiếp cận tổng thể, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI cho rằng, từ đầu nhiệm kỳ tới nay, có 3 điểm nhấn trong cải cách. Đầu tiên là việc bãi bỏ hàng nghìn điều kiện kinh doanh ở cấp thông tư năm 2016, tiếp đó là việc cắt giảm 50% điều kiện kinh doanh năm 2018.
“Và lần này còn trọng tâm hơn, tổng thể hơn, nhưng tôi đề xuất cần ưu tiên xử lý các quy định chồng chéo và bảo đảm minh bạch”, ông Lộc phát biểu. Cùng với đó, cần căn cứ vào các kinh nghiệm tốt của quốc tế, vào cách làm của nhóm 4 nước đứng đầu ASEAN về môi trường kinh doanh.
Đồng tình với dự thảo kế hoạch, song nhiều ý kiến phát biểu từ các bộ tham gia cuộc họp cũng bày tỏ e ngại một số vấn đề, nhất là về tính khả thi và tác động của nội dung “ban hành một thông tư mới phải bãi bỏ ít nhất hai thông tư cũ”.
Tuy nhiên, ý kiến các chuyên gia không đồng tình với e ngại này. Theo ông Phan Đức Hiếu, quan trọng là việc thay đổi phương thức quản lý, tư duy quản lý, bãi bỏ các quy định không còn phù hợp. Ông khẳng định nguyên tắc một đổi một là phù hợp và đã được thực tế kiểm chứng.
Còn ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế của VCCI cũng đồng tình với mục tiêu và nguyên tắc bãi bỏ văn bản mà dự thảo kế hoạch đề ra. “Vấn đề không chỉ nằm ở điều kiện kinh doanh hay thủ tục hành chính. Thực tế chúng tôi thấy ngay cả biểu mẫu cũng chứa đựng điều kiện kinh doanh. Do đó, cần phải thay đổi tư duy và công cụ quản lý”, ông Tuấn nói. Cũng theo ông Tuấn, thực tế cho thấy đang có xu hướng các bộ tách ra để ban hành nhiều văn bản thay vì gom lại, “làm cho quy trình trở nên tốn kém và hệ thống pháp luật trở nên phức tạp”.
Giải thích thêm về nội dung này, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết đây là cải cách mang tính triệt để, mang tính quyết định lâu dài. Thực tế là các thông tư không được lấy ý kiến kỹ lưỡng như ở cấp nghị định hay luật, nên “loằng ngoằng nhiều ở thông tư”. Nếu không áp dụng nguyên tắc “một đổi một, một đổi hai” thì người dân và doanh nghiệp phải tiếp cận rất nhiều văn bản mới nắm được hết các quy định, tất nhiên, việc này sẽ không áp dụng cứng nhắc. Bộ trưởng đề nghị đồng thuận với cách tiếp cân này để thực thi quyết liệt theo tinh thần Chính phủ kiến tạo.
“Khi ban hành Nghị định thay thế Nghị định 38, Bộ Y tế cắt giảm tới trên 90% các mặt hàng kiểm tra an toàn thực phẩm, nhưng số người bị đau bụng đâu có tăng lên. Như vậy là cắt giảm thủ tục mà vẫn bảo đảm quản lý Nhà nước”, Bộ trưởng nhắc tới một ví dụ cải cách thành công.
“Đây là vấn đề rất quan trọng, Thủ tướng rất mong đợi. Cách tiếp cận mới và khó, nhưng khó mới triệt để được và tinh thần đưa ra là phải làm được”, Bộ trưởng nhấn mạnh và cho biết sau cuộc họp, VPCP sẽ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng, lấy ý kiến các bộ, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết và trình Thủ tướng ban hành kế hoạch thực hiện trong tháng 2.
Theo Báo mới
Khẳng định tháo gỡ những điểm chồng chéo sẽ “mở đường” cho đầu tư, huy động được nguồn lực toàn dân, Chủ tịch VCCI cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ có thể đạt mức 9-10%.
Phát biểu tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2019, TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đưa ra kiến nghị ba vấn đề về môi trường kinh doanh.
Khẳng định cần những giải pháp xây dựng cộng đồng doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, góp phần phát triển triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập, Chủ tịch VCCI cho rằng, phát triển bền vững, kinh doanh liêm chính và có trách nhiệm là lẽ sống của doanh nghiệp trong thời hiện đại.
Việt Nam cũng đã xây dựng chương trình quốc gia và thành lập hội đồng quốc gia về phát triển bền vững, vấn đề này cũng đã được lồng ghép vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
“Do đó, đề nghị Chính phủ kiến nghị Quốc hội ban hành luật kinh tế tuần hoàn và có chính sách ưu đãi, khuyến khích các sáng kiến và giải pháp đổi mới sáng tạo thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Việc định hướng khung khổ pháp luật và chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn rất quan trọng”, Chủ tịch VCCI khẳng định.
Đặc biệt, TS. Vũ Tiến Lộc đã kiến nghị ba vấn đề để cải thiện môi trường kinh doanh.
Thứ nhất, VCCI đã chỉ ra 20 điểm chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu.
“Các bộ ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cũng thừa nhận những điểm chồng chéo này. Nhưng chúng ta giải quyết rất chậm chễ”, TS. Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.
Do đó, Chủ tịch VCCI đề nghị Chính phủ chủ trì cùng UBTV Quốc hội cùng các bộ ngành liên quan cùng ngồi bàn xem xét cụ thể từng điểm chồng chéo.
TS. Vũ Tiến Lộc đề nghị, dùng 1 luật sửa nhiều luật, dùng 1 nghị định sửa nhiều nghị định, tháo gỡ ngay những điểm chồng chéo này để mở đường cho đầu tư phát triển.
“Nếu tháo gỡ được những điều này thì chúng ta có thể huy động được nguồn lực từ toàn dân, đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Bởi, hiện thủ tục cấp phép đầu tư kéo dài 2-3 năm, nếu có thể hoàn thành trong 6 tháng hay sớm hơn 1 năm thì toàn bộ quá trình đầu tư sẽ nhanh hơn rất nhiều”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
Đặc biệt, TS. Vũ Tiến Lộc nhận định, nếu tháo gỡ được những điểm chồng chéo “mở đường” cho đầu tư, tăng trưởng nền kinh tế sẽ có thể đạt tới 9-10% “Do đó, đây là điều cần ưu tiên xử lý sớm so với các công việc khác”, Chủ tịch VCCI nói.
Thứ hai, Chủ tịch VCCI đề nghị chính thức hoá hộ kinh doanh. “Đưa hộ kinh doanh thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp với tư cách là loại hình doanh nghiệp một chủ theo thông lệ quốc tế. Đây cũng là mục tiêu thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”, TS. Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.
Theo đó, mỗi hộ kinh doanh đều được đăng ký bởi một cá nhân đại diện cho hộ, tức là về bản chất, hộ kinh doanh chính là doanh nghiệp một chủ theo khái niệm chung của thế giới.
Về bản chất kinh tế, pháp lý và thực tiễn, các hộ kinh doanh, trước hết là các hộ kinh doanh có đăng ký, chính là một loại hình doanh nghiệp nhưng lại chưa được coi là doanh nghiệp và nhiều hộ kinh doanh hiện tại đang có quy mô, và số lao động được sử dụng thậm chí còn lớn hơn các công ty. Đó là một trong những khiếm khuyết lớn nhất trong hệ thống pháp luật về doanh nghiệp hiện hành.
Thứ ba, TS. Vũ Tiến Lộc kiến nghị sớm hoàn thành khung pháp lý về hợp tác công tư (PPP). “Hoàn thành khung pháp lý về PPP đảm bảo minh bạch, an toàn, đảm bảo huy động được nguồn lực xã hội không chỉ với các dự án hạ tầng, mà còn các đề án sản xuất kinh doanh”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
Cũng theo Chủ tịch VCCI, hiện các doanh nghiệp tư nhân lớn đang đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn như sản xuất ô tô, công nghệ thông tin… Đây là những lĩnh vực không chỉ là kinh tế mà là an ninh quốc phòng, do đó, cần khung khổ pháp lý hoàn thiện thúc đẩy hình thức đối tác công tư phát triển.
Theo Realtimes
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, VCCI đã bước đầu tiến hành rà soát sự chồng chéo trong các văn bản luật liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh hiện nay.
Trong phiên họp Chính phủ về pháp luật ngày 5/8, TS Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phát biểu về tình trạng này cũng như đề xuất một số giải pháp…
Chúng tôi xin đăng toàn bộ báo cáo của TS Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI:
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, thời gian vừa qua, VCCI thực hiện việc thu thập, hệ thống lại, làm rõ những điểm chồng chéo, xung đột giữa các quy định của pháp luật. Tuần trước, chúng tôi đã có báo cáo nhanh gửi Thủ tướng Chính phủ về 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu. Trong thời gian từ giờ đến cuối năm, chúng tôi sẽ tiếp tục tập hợp và thống kê hệ thống hoá các điểm chồng chéo, xung đột giữa các văn bản pháp luật và sẽ có báo cáo với Thủ tướng, với Chính phủ vào tháng 12 tới.
Một số điểm xung đột, chồng chéo điển hình như sau:
– Xung đột về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án xây dựng nhà ởgiữa Luật Đầu tư và Luật Nhà ở;
– Xung đột về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư trong dự án có sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất giữa Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu và Luật Đất đai;
– Xung đột về thủ tục giới thiệu địa điểm đầu tư, địa điểm xây dựng giữa Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật Đầu tư;
– Xung đột về thời điểm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường giữa Luật Đầu tư và Luật Bảo vệ môi trường;
– Xung đột về thời điểm cấp Giấy phép quy hoạch giữa Luật Xây dựng, Luật Đầu tư và Luật Nhà ở;
– Xung đột về thời điểm thẩm định nhu cầu sử dụng đất giữa Luật Đất đai và Luật Đầu tư;
– Trùng lặp về phê duyệt quy hoạch và chấp thuận chủ trương đầu tư thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ giữa Luật Đầu tư và Luật Quy hoạch đô thị, Luật Nhà ở;
– Không thống nhất về điều kiện vốn tối thiểu của chủ đầu tư giữa Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đất đai;
– Quy định ngược nhau về việc bố trí khu nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất giữa Luật Đất đai và Luật Đầu tư;
– Không tương thích về quyền cho thuê tài sản gắn liền với đất trong trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm giữa Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự;
– Xung đột về thời gian chấm dứt dự án đầu tư và thu hồi đất giữa Luật Đầu tư và Luật Đất đai;
– Không tương thích về miễn giảm tiền thuế đất đối với dự án thuộc ngành nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư giữa Luật Đầu tư và Luật Đất đai;
– Không tương thích về phạm vi dự án phải ký quỹ giữa Luật Đầu tư và Luật Đất đai;
– Chồng chéo thủ tục xin phép chuyển nhượng dự án bất động sản giữa Luật Đầu tư và Luật Kinh doanh bất động sản;
– Không thống nhất về quyền chuyển nhượng dự án bất động sản giữa Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở và Luật Đất đai;
– Khác nhau về trình tự, thủ tục đầu tư dự án quy mô 5000 tỷ đồng trở lên giữa Luật Đầu tư, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Luật Xây dựng;
– Không thống nhất về lựa chọn nhà thầu thẩm tra thiết kế, dự toán giữa Luật Xây dựng và Luật Đấu thầu.
Việc xung đột, chồng chéo này tác động lớn đến các dự án đầu tư, không rõ các trình tự để thực hiện các thủ tục cũng như không rõ quan hệ của các đạo luật (con gà hay quả trứng có trước). Điều này gây ra nhiều hệ quả lớn, làm mất thời gian, lỡ cơ hội đầu tư, làm tăng chi phí và rủi ro đối với hoạt động kinh doanh:
Về phía doanh nghiệp: Khi làm thủ tục, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính trùng lặp, đi lại mất nhiều thời gian, nộp nhiều loại hồ sơ giống nhau cho các cơ quan nhà nước khác nhau. Chi phí giao dịch rất tốn kém. Trong quá trình thực thi, doanh nghiệp phải tiếp nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra từ các cơ quan khác nhau nhưng lại có nội dung trùng nhau. Không chỉ các dự án luôn đối mặt với tình trạng đình trệ, phát sinh chi phí mà rủi ro nhất đối với doanh nghiệp là nguy cơ vi phạm pháp luật. Nhiều trường hợp doanh nghiệp không biết phải thực hiện theo quy định nào, thực hiện quy định này thì lại vi phạm quy định kia.
Về phía cơ quan quản lý nhà nước: Sự chồng chéo, xung đột giữa các quy định pháp luật khiến các cơ quan thực thi chính sách trở nên lúng túng, bị động khi phải giải quyết công việc cho doanh nghiệp. Tâm lý sợ rủi ro, sợ sai rất phổ biến trong bộ máy nhà nước từ thực trạng chồng chéo, xung đột pháp luật này. Có tình trạng ở nhiều địa phương và thậm chí ở các bộ ngành hiện nay là không dám giải quyết công việc, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm khiến hoạt động đầu tư, kinh doanh bị đình trệ, chậm tiến độ và nhiều việc phải đẩy lên đến cấp Thủ tướng, cấp Chính phủ. Việc chậm trễ trong việc giải ngân vốn đầu tư công thời gian qua là một ví dụ điển hình. Nhưng không chỉ đầu tư công mà cả đầu tư tư nhân cũng bị đình trệ.
Nhìn chung, các xung đột, chồng chéo này đã hạn chế các tác động tích cực trong thực thi các đạo luật, tạo ra cản trở trong quá trình thực thi trên thực tế, phát sinh chi phí lớn và rủi ro cao đối với các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Xung đột này đã tạo ra thực tiễn thực thi rất khác nhau giữa các địa phương. Nó cũng là cơ hội phát sinh các nhũng nhiễu, tiêu cực trong thực hiện dự án.
Về nguyên tắc, thì luật ban hành sau được ưu tiên so với luật ban hành trước, nhưng trên thực tế, Bộ ngành nào khi giải quyết công việc cũng thường viện dẫn luật của bộ ngành mình. Việc xử lý của cơ quan thanh kiểm tra cũng thường thiếu nhất quán, cho nên hiện tượng né tránh, sợ sai, lo an toàn cho mình và đẩy khó khăn về phía người dân và doanh nghiệp vẫn khá phổ biến.
Nguyên nhân của thực trạng này chủ yếu là do pháp luật Việt Nam hiện đang trong tình trạng bị phân mảng mà chưa phải là một hệ thống đồng bộ, minh bạch. Có người gọi đây là hiện tượng “pháp luật cục bộ”. Mặc dù tất cả các đạo luật đều do Quốc hội ban hành và hầu hết các đạo luật đều do Chính phủ trình Quốc hội thông qua, nhưng đâu đó người ta vẫn quen gọi Luật của Bộ này, Nghị định của Bộ kia là có lí do.
Trong quá trình soạn thảo luật, các bộ chuyên ngành được giao chủ trì soạn thảo đều cố gắng mở rộng tối đa phạm vi điều chỉnh của đạo luật, bao quát các vấn đề của đạo luật, ít chú ý đến sự chồng chéo, xung đột với các quy định pháp luật đã có sẵn. Thậm chí, có trường hợp còn cố tình co kéo thêm quyền cấp phép, quyền thanh kiểm tra về cho cơ quan, bộ ngành mình.
Thêm vào đó, theo chúng tôi, hiện đang thiếu một một cơ chế phù hợp, một cơ quan trung gian đủ mạnh để thúc đẩy rà soát và có tiếng nói phản biện đủ khách quan và độc lập để tiến hành rà soát, kiến nghị sửa đổi để khắc phục và ngăn chặn những chồng chéo, xung đột trong quá trình xây dựng và sửa đổi pháp luật.
Hiện nay, việc giải quyết xung đột, chồng chéo chủ yếu phụ thuộc vào việc tranh luận và thoả hiệp giữa các bộ ngành trong quá trình soạn thảo. Tuy vậy, một số cán bộ có trách nhiệm tham gia xây dựng pháp luật có tâm lý không quan tâm đến những công việc nếu không ảnh hưởng đến bộ ngành mình hoặc “dĩ hòa vi quý” không muốn gây căng thẳng với bộ ngành khác nên vẫn chấp nhận tình trạng những nội dung, những điểm chồng chéo, xung đột được đưa vào văn bản pháp luật.
Thời gian tới, giải pháp để khắc phục tình trạng này, chúng tôi kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau:
– Tiến hành rà soát, đánh giá thực tế quy mô và toàn diện về thực trạng và thực tế xung đột pháp luật, đưa ra các giải pháp cụ thể để lồng ghép vào chương trình hành động chung của Chính phủ để sửa các luật hiện đã có trong chương trình các kỳ họp tới. Chính phủ ban hành hoặc trình Uỷ ban Thương vụ Quốc hội ban hành nghị quyết để có định hướng sửa đổi chung;
– Chỉ đạo việc phối hợp làm việc, chia sẻ thông tin và thống nhất định hướng giữa các ban soạn thảo tại các Bộ, ngành để tháo gỡ và ngăn ngừa phát sinh được các chồng chéo, xung đột trong các dự thảo luật hiện đang nằm trong chương trình sửa đổi như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai…;
– Để rút ngắn thời gian, tháo gỡ ách tắc với những văn bản khác chưa giải quyết được trong các luật đã nằm trong chương trình sửa đổi, đề nghị Chính phủ trình Quốc hội triển khai theo cách thức dùng một luật sửa nhiều luật liên quan đến đầu tư kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp;
– Chúng tôi cũng đề nghị cần có một tổ chức độc lập đứng ra giúp Chính phủ chủ trì rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực này. Hạn chế tình trạng “quyền anh, quyền tôi” và đưa ra được các giải pháp đột phá trong cải cách các thủ tục liên ngành.
– Ở các Bộ ngành, chúng tôi cũng đề nghị, nên giao nhiệm vụ xây dựng pháp luật, chính sách cho một tổ chức độc lập thuộc Bộ (Ví dụ: Vụ Pháp chế, Viện thuộc Bộ…) chứ không nên giao cho các Vụ, Cục đang đảm nhận nhiệm vụ thực thi pháp luật, xét duyệt và cấp phát các loại giấy phép. Việc tách hoạt động xây dựng chính sách thuế ra khỏi Tổng cục Thuế của Bộ Tài chính là một thực tiễn tốt có thể tham khảo và nhân rộng.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp
Trước tình trạng đội lốt hàng Việt, VCCI đưa ra cảnh báo đến các doanh nghiệp đề nghị cấp C/O và xác nhận chứng từ thương mại tại VCCI cần phải cung cấp chính xác các tờ khai hải quan xuất khẩu. Đồng thời cũng cảnh báo về việc bị phát hiện kê khai, chứng từ giả.
Theo đó, VCCI nêurõ cảnh báo: Các doanh nghiệp đề nghị cấp C/O và xác nhận chứng từ thương mại tại VCCI lưu ý cung cấp chính xác các tờ khai hải quan xuất khẩu (không được chỉnh sửa bất kỳ nội dung nào mà chưa có sự đồng ý của cơ quan hải quan) và các chứng từ liên quan khác.
Trường hợp VCCI tra cứu tờ khai hải quan xuất khẩu trên hệ thống VNACCS/VCIS phát hiện việc doanh nghiệp sử dụng chứng từ giả hoặc kê khai gian lận, doanh nghiệp đó sẽ bị tạm dừng cấp C/O trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày phát hiện (quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 29 của Nghị định số 31/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa).
Đồng thời, qua đây, VCCI cũng cung cấp hướng dẫn khai báo hồ sơ online và các đầu mối giải đáp các vướng mắc tại các khu vực trong quá trình ký điện tử. Như, doanh nghiệp xin cấp C/O tại Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nghệ An liên hệ số máy: 0243.576.5146; Doanh nghiệp xin cấp C/O tại Đà Nẵng, Quy Nhơn, Vũng Tàu, Tiền Giang, Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Bình Thuận, Khánh Hòa liên hệ số máy:0243.576.5146 (ấn số 1) hoặc 093.464.9889; Doanh nghiệp có nhu cầu mua Chữ ký số xin liên hệ số máy: 093.464.9889.
Điều kiện xin cấp C/O đối với hàng quá cảnh, hàng tạm nhập tái xuất tại Việt Nam
Chứng nhận xuất xứ hàng hóa là một chứng từ thiết yếu trong xuất nhập khẩu. Theo quy định của Bộ Công Thương Việt Nam, giấy chứng nhận Xuất xứ (C/O) chỉ được cấp cho thương nhân Việt Nam, vì vậy cơ quan chức năng sẽ không cấp C/O cho hàng quá cảnh.
Đối với hàng tạm nhập – tái xuất: chúng ta có thể xin cấp C/O trong các trường hợp sau:
– Trường hợp 1: hàng hóa có trải qua quá trình sản xuất/gia công tại Việt Nam với tỷ lệ nội địa hóa trên 30% giá trị FOB của hàng hóa. Trong trường hợp này:
– Trường hợp 2: hàng hóa không trải qua bất kỳ quá trình sản xuất/gia công tại Việt Nam, hoặc tỷ lệ nội địa hóa thấp hơn 30% giá trị FOB của hàng hóa. Trong trường hợp này:
VPPA